VIETNAM APPRAISAL AND INSPECTION Co.ltd
21/12/2024 23:05:30
Kính gửi: Cục Quản lý Giá – Bộ Tài chính
Căn cứ vào Báo cáo đánh giá tác động các chính sách đề nghị xây dựng Luật giá (Sửa đổi). Trong quá trình thực hiện, Công ty TNHH Thẩm định giá và Giám định Việt Nam (viết tắt là Công ty VAI) góp ý, kiến nghị sửa đổi một số nội dung Luật Giá năm 2013 cho phù hợp với thực tế, cụ thể như sau:
I. Tồn tại, hạn chế trong các quy định tại Luật giá 2013:
1. Luật Giá 2013 chưa bám sát lý thuyết về cơ sở hình thành giá
Theo tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam có tiêu chuẩn quan trọng, quy định nội dung về giá trị phi thị trường của tài sản và vận dụng giá trị phi thị trường khi tiến hành thẩm định giá tài sản, cụ thể:
“Giá trị phi thị trường là mức giá ước tính của một tài sản tại thời điểm, địa điểm thẩm định giá, không phản ánh giá trị thị trường mà căn cứ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, chức năng, công dụng của tài sản, những lợi ích mà tài sản mang lại trong quá trình sử dụng, giá trị đối với một số người mua đặc biệt, giá trị khi giao dịch trong điều kiện hạn chế, giá trị đối với một số mục đích thẩm định giá đặc biệt và các giá trị không phản ánh giá trị thị trường khác. Giá trị phi thị trường bao gồm: giá trị tài sản bắt buộc phải bán, giá trị đặc biệt, giá trị đầu tư, giá trị để tính thuế hoặc các giá trị khác” – Tiêu chuẩn thẩm định giá Giá trị phi thị trường (TĐGVN03) Ban hành kèm theo Thông tư số 158/2014/TT-BTC ngày 27 tháng 10 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
Tuy nhiên, trong Luật Giá 2013 mới chỉ đưa ra khái niệm về cơ sở hình thành giá trị thị trường còn thiếu khái niệm về cơ sở hình thành giá giá phi thị trường, việc này sẽ đưa ra một số vấn đề bất cập như sau:
Trong hệ thống các văn bản liên quan đến thẩm định giá, định giá hiện nay thường chỉ có quy định nguyên tắc định giá, thẩm định giá tài sản sát với “giá trị thị trường”, tuy nhiên khi thực hiện nghiên cứu thị trường thì loại tài sản thẩm định không có thị trường theo đúng nội dung quy định về giá trị thị trường như:
- Thẩm định giá thương hiệu, quyền sở hữu trí tuệ, bản quyền …
- Giá trị để tính thuế là giá trị dựa trên các quy định của luật pháp liên quan đến việc đánh giá giá trị tài sản chung theo vùng - tuyến - loại – nhóm không dựa trên đặc điểm tài sản cụ thể, thời điểm cụ thể để tính khoản thuế phải nộp cụ thể: Bảng giá đất, hệ số điều chỉnh; Giá đất làm căn cứ tính thuế chuyển quyền sử dụng đất; Bảng giá tính thuế trước bạ …
- Giá trị tài sản bắt buộc phải bán là tổng số tiền thu về từ bán tài sản trong điều kiện thời gian giao dịch để bán tài sản quá ngắn so với thời gian bình thường cần có để thực hiện giao dịch mua bán theo giá trị thị trường, người bán chưa sẵn sàng bán hoặc bán không tự nguyện. Giá cả trong những cuộc mua bán tài sản như vậy gọi là giá trị tài sản bắt buộc phải bán, không phản ánh giá trị thị trường, như: bán tài sản thế chấp, thi hành án dân sự mặc dù có thể thẩm định giá thị trường nhưng khi áp dụng vào trường hợp "buộc phải bán" thẩm định viên có căn cứ điều chỉnh giảm theo cơ sở hình thành giá phi thị trường.
Tất nhiên khi sử dụng các phương pháp khác, người làm thẩm định vẫn phải sử dụng các số liệu từ phương pháp so sánh, chi phí làm cơ sở tính toán tuy nhiên nếu quy định chỉ có giá trị thị trường để áp dụng cơ sở hình thành giá trị thị trường duy nhất là sai về lý thuyết. tuy nhiên nếu viết trong Chứng thư là cơ sở hình thành giá phi thị trường lại không được chấp thuận.
2. Luật Giá 2013 còn có quy định chưa phù hợp về nghĩa vụ của Thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá:
Theo Tiết c, Khoản 2, Điều 37 Luật Giá quy định về nghĩa vụ của Thẩm định viên về giá như sau:"c) Ký báo cáo kết quả thẩm định giá, chứng thư thẩm định giá và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá về kết quả thẩm định giá;"
Theo Tiết c, Khoản 2, Điều 42. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá Luật Giá quy định: "c) Chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá;"
Nếu xác định chính xác nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá tại Tiết c, Khoản 2 Điều 42 sẽ thấy không phù hợp. Trong khi Thẩm định viên về giá thực hiện và "Ký báo cáo kết quả thẩm định giá, chứng thư thẩm định giá và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người đại diện theo pháp luật, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá về kết quả thẩm định giá;" nhưng lại yêu cầu doanh nghiệp "Chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá;"
Đây là quy định không phù hợp giữa Luật Giá và Luật Doanh nghiệp, vai trò của người đại diện pháp luật được quy định tại Điều 14 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định [Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có những trách nhiệm sau]:
"- Thực hiện các quyền, nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;
- Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp; không lạm dụng địa vị, chức vụ, tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
- Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về việc người đại diện đó và người có liên quan của họ làm chủ, có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các doanh nghiệp.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ nêu trên."
Như vậy "Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ nêu trên" không có nghĩa vụ phải can thiệp vào kết quả làm việc của thẩm định viên về giá, việc quy định Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp "Chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá" đương nhiên làm phát sinh nghĩa vụ không tự thực hiện mà do thẩm định viên về giá thực hiện, như vậy là lẫn lộn nghĩa vụ của thẩm định viên về giá và Người đại diện theo pháp luật.
Nếu quy định bổ sung điều kiện đối với người đại diện theo pháp luật, Giám đốc, Tổng giám đốc (gọi chung là giám đốc) của doanh nghiệp thẩm định giá là: "Đảm bảo chất lượng của dịch vụ cung cấp" đồng nghĩa với việc giám đốc doanh nghiệp phải giám sát suốt quá trình thực tế thực hiện của từng hợp đồng theo quy trình thẩm định giá theo tiêu chuẩn thẩm định giá số Quy trình thẩm định giá (Ký hiệu: TĐGVN 05) thì mới đảm bảo được "tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá"; Trường hợp phải giám sát giám sát liên tục như vậy sẽ mất tính độc lập của Thẩm định viên trong quá trình tác nghiệp.
Trong thực tế, hàng năm có những doanh nghiệp ký hàng nghìn hợp đồng tương ứng với hàng nghìn chứng thư thẩm định giá thì việc quy định như vậy là không thể thực hiện được, ngoài khả năng của con người. Sau khi tham khảo Luật Kiểm toán độc lập có hiệu lực từ 01/01/2012 cũng không ràng buộc nội dung này trong khi tính chất công việc tương đối giống nhau. Như vậy việc quy hoạch lại nghề thẩm định giá (nếu có) còn cần thay đổi Luật giá cho phù hợp với khả năng quản lý chất lượng công việc, quan hệ pháp lý giữa thẩm định viên với doanh nghiệp thẩm định giá mới có thể thành hiện thực.
3. Việc phân công, phân cấp trong Thanh tra giá
Quy định Thanh tra Giá chỉ có ở cấp trung ương mà không có ở cấp tỉnh.
4. Luật Giá 2013 không kế thừa và không nhất quán với Pháp lệnh Giá về chủ trương thành lập các tổ chức thẩm định giá công
Thực hiện chủ trương của Pháp lệnh Giá, các tỉnh thành phố trong cả nước đã tiến hành thành lập các Trung tâm thẩm định giá trực thuộc sở Tài chính dưới mô hình đơn vị Sự nghiệp có thu có chức năng cung cấp dịch vụ thẩm định giá và sau đó được chuyển đổi thành doanh nghiệp thẩm định giá theo hướng dẫn tại Thông tư số 67/2007/TT-BTC.
Luật Giá 2013 quy định thẩm định giá công tức là có định hướng tái lập lại quy trình cũ đã được thay đổi tức là lại thành lập đơn vị Sự nghiệp có thu hoạt động độc lập có chức năng cung cấp dịch vụ thẩm định giá hoặc giao cho cán bộ Nhà nước cung cấp “dịch vụ thẩm định giá công”
Việc quy định như vậy là không nhất quán quan điểm xã hội hoá nghề thẩm định giá từ khi thực hiện chia tách chức năng của cơ quan hành chính sự nghiệp thành sự nghiệp có thu rồi chuyển ra doanh nghiệp. Đồng thời chuyển cán bộ công chức thành viên chức hưởng lương ngân sách rồi thành người lao động hưởng lương doanh nghiệp để rồi sau đó Nhà nước lại giữ lại chức năng và thành lập mới lại bộ phận đã bị chia tách.
5. Tính cạnh tranh lành mạnh của mô hình "thẩm định giá Nhà nước"
“Điều 45. Tổ chức thẩm định giá của nhà nước
1. Tổ chức thẩm định giá của nhà nước được cơ quan quản lý nhà nước về tài chính, giá cả ở trung ương và địa phương giao nhiệm vụ thẩm định giá.
2. Tổ chức thẩm định giá của nhà nước có nhiệm vụ thẩm định giá tài sản nhà nước phải thẩm định giá quy định tại khoản 2 Điều 35 Luật này.
Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức thẩm định giá của Nhà nước.”
Do tài sản mua sắm quy định phải thẩm định trong Luật là tài sản có nguồn gốc ngân sách hoặc mua sắm bằng nguồn vốn Ngân sách. Việc thành lập các tổ chức có chức năng thẩm định giá công sẽ tồn tại dưới mô hình đơn vị sự nghiệp có thu để cung cấp dịch vụ sẽ được là “tổ chức có chức năng về thẩm định giá ưu tiên” khi tài sản phải thẩm định theo quy định của Luật.
Thị trường thẩm định giá hiện nay phần lớn phục vụ cho mua bán tài sản nhà nước, khách hàng là cơ quan, tổ chức sử dụng nguồn vốn Ngân sách có nhu cầu thẩm định giá sẽ “chỉ” thuê tổ chức thẩm định giá công tiến hành thẩm định do đối tượng sử dụng kết quả thẩm định, đối tượng kiểm tra, kiểm soát kết quả thẩm định cũng là cán bộ công chức.
Các tổ chức thẩm định giá công này sẽ được quyền lựa chọn chỉ thẩm định những tài sản “đơn giản” “dễ thực hiện” còn khó quá mới phải thuê tổ chức “không thuộc khu vực Nhà nước” nhưng lại được quyền giám sát, kiểm tra chính hoạt động này đồng thời lại cũng được quyền phê duyệt cuối cùng là điều rất bất cập.
Trong Luật Giá 2013 cũng chỉ đưa ra hướng dẫn về điều kiện thành lập, điều kiện hành nghề của “tổ chức thẩm định giá thuộc các thành phần kinh tế (không thuộc khu vực Nhà nước) mà chưa có hướng dẫn về điều kiện thành lập, hành nghề của tổ chức thẩm định giá “thuộc khu vực Nhà nước” là một hình thức phân biệt đối tượng, kém minh bạch.
Như vậy hướng dẫn về thẩm định giá công và doanh nghiệp thẩm định giá đương nhiên mâu thuẫn về điều kiện thành lập, điều kiện hành nghề và môi trường hành nghề và trái với khoản 1 Điều 34. Những hành vi bị cấm trong hoạt động thẩm định giá.
“1. Cạnh tranh trong hoạt động thẩm định giá không đúng hoặc trái với quy định của pháp luật về cạnh tranh, của Luật này và các pháp luật có liên quan.”
II. Góp ý tổng thể các chính sách xây dựng luật Giá (sửa đổi)
1. Kiến nghị sửa đổi các tồn tại của Luật Giá năm 2013
- Bổ sung khái niệm cơ sở giá trị phi thị trường
- Quy định lại trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá về kết quả thẩm định giá
- Quy định cụ thể về quản lý thẩm định giá cấp tỉnh
2. Biện pháp kê khai giá thể hiện rất rõ chủ trương quản lý, điều hành giá theo thị trường có sự quản lý Nhà nước.
Việc kê khai giá cần được siết chặt theo hướng cấm tham gia đấu thầu nếu sản phẩm cung cấp không niêm yết giá công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, website.
Đối với các mặt hàng có giá trị công nghệ cao (ví dụ như thiết bị y tế, máy công trình, thiết bị chuyên dụng): đề nghị khi kiểm soát hợp quy, hợp chuẩn bắt buộc phải niêm yết giá công khai tối đa của chính hãng tại các đại lý chính hãng, công bố hệ thống phân phối sản phẩm chính thức; Nghiêm cấm xây dựng cấu hình thầu có yếu tố chỉ định, đưa đặc điểm kỹ thuật đặc trưng (chỉ 1 sản phẩm cụ thể đạt yêu cầu kỹ thuật) hãng sản xuất cấp ủy quyền độc quyền vào dự án
3. Chủ trương tăng thẻ thẩm định giá viên tại doanh nghiệp
Theo chủ trương của Bộ Tài chính trong cuộc hội nghị thường niên giám đốc các doanh nghiệp thẩm định giá năm 2019 tại Hạ Long - Quảng Ninh do Cục Quản lý giá - Bộ Tài chính tổ chức, được biết Bộ Tài chính có chủ trương quy hoạch lại doanh nghiệp thẩm định giá theo hướng tăng quy mô doanh nghiệp, tăng số thẻ thẩm định viên về giá để các doanh nghiệp thẩm định giá có đủ khả năng kiểm soát chất lượng dịch vụ, cạnh tranh lành mạnh … để tránh cạnh tranh không lành mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ.
Về cơ bản mô hình tư vấn thuộc nhóm doanh nghiệp đối nhân chứ không thuộc nhóm đối vốn do dùng khả năng, năng lực con người để hành nghề chứ không sử dụng vốn lớn như các ngành thương mại, sản xuất khác. Chất lượng của 1 chứng thư thẩm định giá là do Thẩm định viên về giá thực hiện theo quy trình thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá chỉ đối chiếu đủ mục là có thể ký ban hành theo đề nghị của Thẩm định viên về giá để trả kết quả cho khách. Thực tế doanh nghiệp TĐG càng lớn thì khả năng kiểm soát chất lượng TĐG càng thấp vì giám đốc ký càng nhiều chứng thư sẽ càng mất kiểm soát chất lượng. Thực tế là 1 chứng thư chỉ có người ký TĐV và người làm thực tế (trợ lý) mới biết được mức độ rủi ro của kết quả ban hành, giám đốc thì chịu chết, nói gì biết nấy.
Có nhiều doanh nghiệp khắc cả dấu chữ ký để ... đóng cho đỡ mỏi, doanh nghiệp chỉ tập trung mở rộng khai thác thị trường, giữ khách truyền thống, chiều khách, mở chi nhánh, văn phòng các tỉnh, lập phòng thị trường, phòng kinh doanh ... cạnh tranh bằng quan hệ, bằng phá giá dịch vụ, bằng chiều ý khách. Đề nghị nghiêm cấm cạnh tranh không lành mạnh như phá giá, lập các bộ phận phát triển thị trường, phòng kinh doanh, chăm sóc khác hàng.
Muốn nâng cao chất lượng thẩm định giá, Bộ Tài chính nên quản lý chặt chẽ hơn trong kiểm tra thường xuyên, chi tiết các vi phạm nghiệp vụ. Sửa Nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giá cần chi tiết, tách chi tiết hành vi để tránh đánh đồng lỗi nặng với lỗi nhẹ rồi bỏ qua theo kiểu nhắc nhở.
Như vậy, đối với nghề thẩm định giá chất lượng của Chứng thư thẩm định giá phụ thuộc vào thẩm định viên về giá thực hiện, ký vào Chứng thư chứ không phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp thẩm định giá lớn hay bé, việc quy định tăng số lượng thẻ thẩm định viên về giá là không phù hợp với bản chất nghề nghiệp. Không có mô hình doanh nghiệp nào là phù hợp hay không phù hợp, chất lượng thẩm định giá phụ thuộc vào trách nhiệm, trình độ của thẩm định viên.
4. Quy định trách nhiệm liên quan đến lĩnh vực Giá của các bộ ngành có liên quan
Nghiệp vụ thẩm định giá bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế do đó cần thiết các bộ ngành cần phải làm hết trách nhiệm của ngành mình khi đã được luật pháp quy định. Cụ thể như khi áp dụng tiêu chuẩn thẩm định giá theo các tiếp cận từ thu nhập để thẩm định giá bất động sản không có các số liệu thống kê thị trường chính thống của cơ quan quản lý Nhà nước như tỷ lệ chi phí, tỷ lệ lấp đầy … hay áp dụng thẩm định giá trị doanh nghiệp phải sử dụng thông tin thống kê từ nước ngoài cho doanh nghiệp trong nước là không đảm bảo, Chúng tôi kiến nghị luật làm rõ trách nhiệm của các bộ ngành như:
- Tổng cục thống kê cần đưa ra các chỉ số thống kê ngành để làm căn cứ áp dụng các phương pháp thẩm định, định giá theo các phương pháp chi phí, thu nhập, thặng dư như: lợi nhuận định mức ngành;
- Bộ Tài chính: công bố Hệ số rủi ro (beta) ngành, …
- Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch: công bố số liệu thống kê ngành du lịch khách sạn
- Bộ Tài nguyên Môi trường: công bố chỉ số bất động sản
…
5. Hướng dẫn chi tiết đối với các tài sản Nhà nước cần định giá theo ngành.
Đối với các mặt hàng, tài sản Nhà nước quản lý giá, định giá cần ban hành chi tiết phương pháp tính, các tổ chức thẩm định giá chỉ thực hiện khảo sát giá thị trường để áp vào công thức tránh việc các tỉnh, bộ ngành khác nhau thực hiện khác nhau, khi kết quả định giá bị thanh kiểm tra, kiểm toán NN hay điều tra sẽ bị điều chỉnh (kết luận) theo cách hiểu của cá nhân thanh tra viên, kiểm toán viên, điều tra viên mà không dựa trên văn bản quy định hay nguyên lý kinh tế nào.
Các phương pháp, công thức, nguyên lý áp dụng trong các hoạt động định giá, thẩm định gía cần được giao cho Bộ Tài chính thống nhất về chuyên môn để phù hợp với các công thức, phương pháp gốc.
6. Thống nhất quản lý việc cấp chứng chỉ hành nghề chuyên ngành và thẻ thẩm định giá
Thẩm định giá liên quan, phục vụ nhiều ngành, tuy nhiên các Luật, nghị định ban hành sau thường không liên thông với văn bản ban hành trước do đó đưa ra các yêu cầu hành nghề mới gây khó khăn về pháp lý khi thẩm định viên về giá hành nghề, cụ thể như:
- Định giá xây dựng (xác định nguyên giá công trình); giám định công trình xây dựng (xác định tỷ lệ chất lượng còn lại);
- Giám định tư pháp;
- Định giá đất …
Mặc dù yêu cầu doanh nghiệp phải đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá nhưng các bộ ngành đưa ra yêu cầu chứng chỉ cá nhân do do ngành cấp mới được cung cấp dịch vụ.
7. Thẩm định giá Nhà nước:
Việc xã hội hóa hoạt động thẩm định giá là định hướng đúng đắn chung của Nhà nước về dịch vụ công đồng nghĩa với việc giảm thiểu trách nhiệm của nhà nước trong cung cấp các dịch vụ, nhà nước đóng vai trò điều tiết bảo đảm sự có mặt của dịch vụ công đó thay vì trực tiếp cung cấp các dịch vụ công. Ngành thẩm định giá được chia tách từ thẩm định giá công và đã hoạt động được trên 15 năm và có những cống hiến không nhỏ vào sự phát triển của đất nước.
Do đó không nên song trùng quy định thẩm định giá Nhà nước (thẩm định giá công) và thẩm định giá ngoài khu vực nhà nước. Kiến nghị bỏ hướng dẫn về thẩm định giá Nhà nước mà quy định chi tiết hơn về tiêu chuẩn cán bộ của các bộ ngành tham gia các Hội đồng định giá để thực hiện thẩm tra kết quả thẩm định giá, định giá độc lập hoặc Hội đồng định giá vẫn có thể tự thực hiện định giá.
Đề nghị Ban hành thống nhất trong cả nước việc định giá trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự do Tổ chức thẩm định giá thực hiện và được Hội đồng định giá thẩm tra, phê duyệt, không nên để thành phần của Hội đồng định giá là cán bộ kiêm nhiệm, bán chuyên trách, làm nghiệp vụ ít liên quan phải tự thực hiện các nghiệp vụ khảo sát giá thị trường, tổng hợp phân tích, báo cáo và ban hành kết quả như hiện nay (thông thường là không đảm bảo quy trình thực hiện theo hướng dẫn chuyên môn).
8. Chế độ cấp thẻ thẩm định giá
Trong quá trình hành nghề thẩm định giá, Công ty nhận thấy việc thi thẻ thẩm định viên là vấn đề rất bức xúc do người làm công tác thẩm định giá vừa học vừa làm nên kết quả thi thường không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Chúng tôi ủng hộ việc sắp tới quy định cấp thẻ hành nghề thẩm định giá theo chuyên ngành như thẩm định giá bất động sản, tài sản, giá trị doanh nghiệp, tài sản vô hình để người làm thẩm định giá có thể được chính thức hành nghề, chịu trách nhiệm trước pháp luật kết quả mình thực hiện.
Theo đó, Luật Giá sửa đổi cần quy định rõ số thẻ cũ (đầy đủ các ngành) và thẻ theo ngành nghề có thể quy đổi như thế nào nếu phải tăng số thẻ thẩm định viên về giá trong doanh nghiệp.
9. Nâng cao chất lượng dịch vụ thẩm định giá
Việc nâng số lượng thẻ thẩm định viên về giá trong 1 doanh nghiệp không nâng cao chất lượng dịch vụ thẩm định giá. Số lượng thẩm định viên nhiều hay ít sẽ liên quan đến các quy mô của các hợp đồng thẩm định giá trong đó doanh nghiệp phải tự lượng sức để ký kết.
Kiến nghị Nghị định quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giá tách hành vi vi phạm (có thể căn cứ vào hướng dẫn tại thông tư 323/2016/TT-BTC) để xử phạt nhằm tăng trách nhiệm của thẩm định viên, của doanh nghiệp thẩm định giá.
Trên đây là một số ý kiến đóng góp về sửa đổi Luật Giá năm 2013 của Công ty TNHH Thẩm định giá và Giám định Việt Nam. Rất mong Bộ Tài chính, Ban soạn thảo luật nghiên cứu ý kiến đóng góp để soạn thảo Luật sửa đổi được sâu sát với thực tiễn./.