VIETNAM APPRAISAL AND INSPECTION Co.ltd
23/11/2024 16:19:51
CÔNG TY TNHH THẨM ĐỊNH GIÁ VÀ GIÁM ĐỊNH VIỆT NAM ---------------------------------- Số: 141 /CV-VAI Về việc: góp ý sửa đổi Luật Giá |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ----------------------------------- Hà Nội, ngày 29 tháng 03 năm 2023 |
Kính gửi: Bộ Tài chính
Căn cứ vào Dự thảo Luật giá đăng trên cổng điện tử của Chính phủ http://www.lapphap.vn/Pages/DuThao/XemGopY.aspx?iDDTVB_DuThaoVanBan=1917&replyUrl=/Pages/DuThao/dsduthao.aspx
Trong quá trình thực hiện, Công ty TNHH Thẩm định giá và Giám định Việt Nam (viết tắt là Công ty VAI) góp ý, kiến nghị sửa đổi một số nội dung Luật Giá cụ thể như sau:
1. Góp ý Điều 4. Giải thích từ ngữ
1.1. Góp ý Khoản 1. Hàng hóa là sản phẩm có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường.
Định nghĩa “hàng hóa” là “sản phẩm” thì đang dùng một từ Hán Việt có đồng nghĩa để giải thích một từ Hán Việt khác, sản phẩm hay hàng hóa về bản chất phải được hình thành, kết tinh thông qua lao động trong khi tài sản là những vật có thể hình thành trong tự nhiên. Nên thay thế định nghĩa “hàng hóa” bằng định nghĩa “tài sản” cho phù hợp với Bộ luật Dân sự là luật khung trong khi Hàng hóa chỉ được quy định trong Luật Thương mại. Danh từ “tài sản” đã được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp luật về dân sự, giá, thẩm định giá, … và có ý nghĩa bao trùm cả “hàng hóa”
Việc đặt lại danh từ và định nghĩa như vậy cũng phù hợp với quy định tại Khoản 3 Điều 41 Luật này. Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015, “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
1.2. Góp ý Khoản 20. “Thông đồng về giá, thẩm định giá là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi thỏa thuận, cấu kết với khách hàng, người có liên quan nhằm làm sai lệch mức giá hàng hóa, dịch vụ hoặc kết quả thẩm định giá tài sản để trục lợi”.
Có nhiều trường hợp có thể chứng minh hành vi thông đồng, có thể chứng minh được thiệt hại cho bên thứ 3 nhưng không thể chứng minh được giá trị “trục lợi”, do vậy đề nghị bỏ cụm từ “để trục lợi”
2. Góp ý Khoản 3, Điều 6. Công khai thông tin về giá, thẩm định giá
2.1. Góp ý Tiết c, Khoản 1: Cơ quan nhà nước thực hiện công khai
c) Danh sách doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thẩm định viên về giá; danh sách doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ hoạt động kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; danh sách người bị tước, thu hồi Thẻ thẩm định viên về giá;
Đề nghị thay từ “tước” thành “đình chỉ” cho phù hợp với các quy định khác về đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp thẩm định giá
2.2. Góp ý Khoản 3. Doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện công khai:
“c) Bảng giá dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá.”
Do tài sản thẩm định giá có lĩnh vực rất rộng phức tạp, không thể tính trước được các tài sản sẽ dự kiến thẩm định giá trong tương lai nên không doanh nghiệp nào có thể xây dựng trước được bảng giá dịch vụ đầy đủ, kịp thời; Bảng giá công khai của doanh nghiệp thẩm định giá là hình thức niêm yết giá, chỉ có thể nhóm theo loại tài sản, chủ yếu dựa trên giá trị ước tính (theo giá đề nghị thẩm định giá hoặc theo kết quả thẩm định giá); Tuy nhiên mức độ phức tạp của tài sản thẩm định giá liên quan đến chi phí (giá vốn) lại quá nhiều nên Dự thảo Luật yêu cầu niêm yết và “không được bán cao hơn giá niêm yết” quy định tại Khoản 3 Điều 30 quy định về Niêm yết giá là yêu cầu không thể thực hiện, xin đưa ra một số ví dụ cụ thể như sau:
Ví dụ:
+ Đối với tài sản đã qua sử dụng dụng có giá trị nhỏ như tài sản thanh lý, hàng hóa tịch thu sung công quỹ của cơ quan thi hành án, quản lý thị trường có giá trị rất thấp nhưng số lượng, chủng loại rất nhiều, Tổ thẩm định giá phải khảo sát rất vất vả, mô tả chất lượng, đánh giá các yếu tố kỹ thuật để điều chỉnh giảm giá, tài sản để ở nhiều nơi nhưng không thể báo giá cao hơn so với tài sản mua mới không phải thực hiện khảo sát, giá tham chiếu tính giá dịch vụ lại cao hơn
+ Đối với giá trị doanh nghiệp: mức độ phức tạp của các tài sản, các khoản đầu tư ra bên ngoài, mô hình, lĩnh vực hoạt động trong doanh nghiệp là rất khác nhau nên không nghiên cứu kỹ tình hình tài chính sẽ không thể tính chi phí dịch vụ phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp.
+ Đối với tài sản chuyên dùng: như hiện nay, đối với thiết bị y tế, tài sản thuê gia công, đặt đóng, phần mềm … rất khó có thể đánh đồng với các tài sản thông dụng do có thể phải trưng cầu chuyên gia (thuê ngoài) để hỗ trợ về chuyên môn trong khi không thể thu cao hơn giá đã niêm yết.
Mặc dù tại Điều 8 quy định về Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cho phép “Tự định giá và điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình kinh doanh”; “Quyết định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh” nhưng không thể lập bảng giá có đầy đủ giá dịch vụ để niêm yết chi tiết như yêu cầu tại Khoản 2 Điều 30 về Niêm yết
“2. Việc niêm yết được thực hiện bằng các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế tại địa điểm bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ hoặc trên các trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ; giá niêm yết phải gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ cụ thể, thông tin về đặc điểm kinh tế kỹ thuật cơ bản (nếu có) và xuất xứ (nếu có); khuyến khích in trực tiếp lên bao bì của sản phẩm. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ điều chỉnh mức giá niêm yết kịp thời ngay khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ.”
Việc quy định doanh nghiệp thẩm định giá phải niêm yết công khai giá dịch vụ trong các trường hợp tài sản thẩm định giá có mức độ phức tạp cao, doanh nghiệp thẩm định giá không thể chủ động điều chỉnh giá dịch vụ trước khi điều chỉnh Bảng giá dịch vụ đã công khai nhưng không được ký hợp đồng cao hơn giá niêm yết trong khi quy định Bảng giá phải chi tiết đến “giá niêm yết phải gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ cụ thể” như vậy là yêu cầu mang tính thủ tục, kém linh hoạt cho việc hiệp thương, thỏa thuận giá, vi phạm các quyền về tự định giá tài sản hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân cung cấp.
Trong thực tế, giá dịch vụ thẩm định giá được ước tính theo mức độ phức tạp của tài sản mà không căn cứ theo giá trị tài sản thẩm định giá như đã nêu ở ví dụ, Dự thảo Luật Giá quy định như vậy sẽ làm cho doanh nghiệp thẩm định giá không thể niêm yết được Bảng giá dịch vụ công khai, không thể kịp thời điều chỉnh trường hợp tính giá dịch vụ trước khi thỏa thuận với khách hàng thẩm định giá để đáp ứng được yêu cầu quá chi tiết của Luật.
2.3. Góp ý Tiết b, Khoản 3. Doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện công khai:
“b) Tên, thông số kinh tế - kĩ thuật cơ bản và giá trị tài sản tại Chứng thư thẩm định giá sau khi hết thời hạn hiệu lực;”
Việc công bố thông tin tài sản thẩm định giá sau khi Chứng thưu thẩm định giá hết hiệu lực chỉ nên hạn chế trong một số lĩnh vực cần phải công khai để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc ga về giá, ví dụ như mua tài sản thông thường bằng nguồn ngân sách, bán tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu toàn dân; Tuy nhiên với một số thông tin của trong một số trường hợp, đối tượng cụ thể vẫn cần thiết phải giữ tính bảo mật như quyền sáng chế - sở hữu trí tuệ, tài sản thuộc sở hữu doanh nghiệp, cá nhân (mà chủ tài sản không muốn bị công bố công khai) …
Việc quy định như dự thảo sẽ bắt buộc doanh nghiệp thẩm định giá phải công khai cần ghi rõ phạm vi, đối tượng để tránh sung đột với các luật yêu cầu về bảo mật hay thỏa thuận dân sự (tại hợp đồng thẩm định giá) … ; Mặc dù việc công khai thông tin đã loại trừ không áp dụng đối với các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước và các trường hợp không được phép công khai theo quy định của pháp luật tại Khoản 4 tuy nhiên cần thiết phải có loại, nhóm tài sản cụ thể để tránh các sung đột theo ý chí chủ quan của khách hàng thẩm định giá.
Đề nghị sửa thành:“b) Tên, thông số kinh tế - kĩ thuật cơ bản và giá trị tài sản tại Chứng thư thẩm định giá sau khi hết thời hạn hiệu lực theo danh mục các loại, nhóm tài sản quy định phải công khai theo yêu cầu Bộ Tài chính”
3. Góp ý Điều 7 Các hành vi bị nghiêm cấm
3.1. Góp ý Tiết c, Khoản 2. Đối với tổ chức, cá nhân:
“c) Lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, thảm họa, dịch bệnh, chính sách của nhà nước và điều kiện bất thường khác để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý không phù hợp với biến động của yếu tố hình thành giá so với trước khi điều chỉnh giá;”
Việc luật quy định “để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý” là quy định có tính định tính, rất khó cho các đối tượng có liên quan do không có công bố về lợi nhuận định mức ngành và gián tiếp “điều tiết” giá cả thị trường hàng hóa không thiết yếu, khống chế việc tăng giá trong những thời điểm nhất định bằng mệnh lệnh hành chính để điều chỉnh nguyên tắc cung cầu, nguyên tắc cạnh tranh tự nhiên của thị trường; Lấy đi cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư may mắn và / hoặc có khả năng dự báo tốt về nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên, Luật có thể giao cho Chính phủ quy định chi tiết thế nào là bất hợp lý, yêu cầu có bộ ngành tính toán, ban hành lợi nhuận định mức ngành … để cụ thể hóa quy định này (nếu có thể).
3.2. Góp ý chung khoản 3, 4, 5, 6
Ban soạn thảo Dự thảo Luật cần phân biệt rõ pháp nhân và cá nhân để có quy định phù hợp hơn, cụ thể như sau:
Pháp nhân là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật. Pháp nhân được vận hành bởi một hoặc nhiều cá nhân đại diện theo pháp luật; “Pháp nhân” không thể tự có hành vi mà các hành vi phải được thực hiện thông qua cá nhân đại diện cho pháp nhân.
Như vậy Pháp nhân là doanh nghiệp thẩm định giá, Hội đồng thẩm định giá không thể có các hành vi: “Thông đồng về giá, thẩm định giá”, “trục lợi”, “Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác”, “Phát hành chứng thư thẩm định giá nhưng không thực hiện hoạt động thẩm định giá” … . Ban soạn thảo cần cân nhắc lại các quy định tại Khoản 3, Khoản 5 Điều 7 để quy định các nội dung phù hợp hơn với đối tượng và / hoặc cụ thể hóa đối tượng điều chỉnh tại Khoản 3, Khoản 5 là Chủ doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá; Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng thẩm định giá
Đề xuất điều chỉnh cụ thể như sau:
3.3. Góp ý Tiết e, Khoản 3; Tiết h, Khoản 4; Các hành vi bị nghiêm cấm đối với đại diện doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá:
Tiết e, Khoản 3 “e) Phát hành chứng thư thẩm định giá nhưng không thực hiện hoạt động thẩm định giá.”
Tiết h, Khoản 4 h) Lập báo cáo kết quả thẩm định giá nhưng không thực hiện hoạt động thẩm định giá;
Theo Tiêu chuẩn thẩm định giá, Chứng thư thẩm định giá đúng quy định phải bao gồm Chứng thư thẩm định giá kèm theo Báo cáo kết quả thẩm định giá trong đó Thẩm định viên về giá và đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá phải đồng thời ký vào cả 2 văn bản này; Do đó, việc quy định hành vi cấm của 2 đối tượng này là hoàn toàn khác nhau do doanh nghiệp không thể tự phát hành Chứng thư thẩm định giá không do thẩm định viên thực hiện hoặc thẩm định viên đã cấm hành nghề độc lập thì không thể đơn phương ký Báo cáo kết quả thẩm định giá. Do vậy đề nghị như sau:
Đối với Tiết e, Khoản 3: “e) Giả mạo chữ ký và / hoặc phát hành chứng thư thẩm định giá không do thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thực hiện.”
Đối với Tiết h, Khoản 4: “h) Giả mạo pháp nhân và / hoặc lập và phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá cho khách hàng không thông qua doanh nghiệp đang đăng ký hành nghề thẩm định giá.”
Quy định Tiết d, Khoản 5 của Dự thảo cũng lập luận loại trừ tương tự nên đề nghị bỏ quy định định này: “d) Lập kết luận thẩm định giá nhưng không thực hiện hoạt động thẩm định giá.”
3.4. Góp ý Tiết b, Khoản 3, 5; Đối với Doanh nghiệp thẩm định giá; Hội đồng thẩm định giá:
“b) Thông đồng về giá, thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá, người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá để trục lợi;”
Do doanh nghiệp và Hội đồng là pháp nhân nên không thể có hành vi thông đồng về giá, thẩm định giá được mà chỉ có thể thực hiện hành vi thông đồng, có hưởng lợi bởi cá nhân đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hay các thành viên của Hội đồng trực tiếp ký vào kết quả thẩm định giá, định giá, do đó đề nghị sửa đối tượng “cấm thông đồng về giá, thẩm định giá” đối với tổ chức sẽ thay bằng người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp thẩm định giá; Chủ tịch, phó chủ tích Hội đồng thẩm định giá và chỉ cần quy định cấm “Thông đồng về giá, thẩm định giá” theo định nghĩa tại Khoản 20 Điều 4
3.5. Góp ý Tiết a, Khoản 5, 6. Đối với thẩm định viên về giá, thành viên Hội đồng thẩm định giá:
a) Thông đồng về giá, thẩm định giá với người có liên quan khi thực hiện thẩm định giá để trục lợi;
Có nhiều trường hợp việc thông đồng của thẩm định viên về giá, thành viên Hội đồng nhưng không chứng minh được giá trị trục lợi cá nhân (nhận, đòi tiền hối lộ, tư túi) do vậy chỉ cần cấm theo định nghĩa tại Khoản 20 Điều 4 như kiến nghị là đầy đủ ý nghĩa. Đề nghị sửa thành:
a) Thông đồng về giá, thẩm định giá
4. Góp ý Điều 8. Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
Góp ý Khoản 3 Điều 8. Tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ do mình kinh doanh trên cơ sở căn cứ giá tham chiếu được công bố. Áp dụng nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá do Nhà nước quy định để định giá hàng hóa, dịch vụ.
Cùng với Khoản 6 Điều 9 Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quy định “Căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá hàng hóa, dịch vụ để xem xét định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ định giá, kê khai giá.”
Đây là các quy định làm giới hạn, xâm phạm quyền tự định giá hàng hóa, tài sản của tổ chức, cá nhân, cụ thể như: Trường hợp tài sản không có giá tham chiếu sẽ phải xử lý như thế nào, chủ thể làm sao để biết cách điều chỉnh (hồi quy) về hàng hóa có giá tham chiếu; không có chuyên môn làm sao biết cách để xây dựng phương án giá cho đúng với quy định của Nhà nước. Quy định này đặt ra yêu cầu bắt buộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều phải có hiểu biết tối thiểu đảm bảo xây dựng giá thành, giá bán cho mọi đối tượng, khi có yêu cầu phải chứng minh, là không phù hợp và sẽ xảy ra trường hợp đương nhiên vi phạm pháp luật, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Nếu giữ quy định này nên đặt ra danh mục hàng hóa cần phải thực hiện tương tự như hàng hóa phải lập phương án giá và phù hợp với quy định tại Khoản 2, Điều 23. Quy định Phương pháp định giá cảu Dự thảo.
5. Góp ý Khoản 3 Điều 10. Quyền của người tiêu dùng
“Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời về giá, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ; …”
Luật quy định như vậy sẽ gây nhiều phiền phức cho bên bán hàng hóa không phải là nhà sản xuất, nhà sản xuất vì bất cứ người tiêu dùng nào cũng có quyền yêu cầu được biết thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời về giá, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ sẽ xâm phạm quyền sở hữu tài sản, quyền giữ bí mật thông tin …
6. Góp ý Điều 22. Nguyên tắc định giá
2. Bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng.
3. Xem xét điều chỉnh giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi.
Toàn bộ quy định tại Khoản 1 của Điều này chỉ phù hợp với đối tượng định giá quy định tại Điều 21 Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá nhằm các mục đích quản lý, bình ổn, điều tiết thị trường liên quan đến các mặt hàng thiết yếu; Đối với các đối tượng còn lại thuộc quyền định giá của tổ chức cá nhân không thể là đối tượng điều chỉnh của khoản này, việc định giá phải đảm bảo nguyên tắc cung cầu, cạnh tranh của cơ chế thị trường. Đề xuất giới hạn đối tượng điều chỉnh như sau:
1. Đối với Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá quy định tại Điều 21 phải bảo đảm nguyên tắc bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế hợp lý; lợi nhuận (nếu có) phù hợp với mặt bằng thị trường, cung cầu hàng hóa, dịch vụ và chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ.
2. Đối với Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá không quy định tại Điều 21, tổ chức, cá nhân chủ động định giá tài sản, hàng hóa của mình theo nguyên tắc bù đắp chi phí, có lãi và đảm bảo quy luật cung cầu, cạnh tranh của thị trường.
7. Góp ý Khoản 5 Điều 29. Kê khai giá
“Tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng kê khai giá tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ và có trách nhiệm kê khai giá lần đầu và kê khai lại giá ngay sau khi quyết định giá theo quy định. Cơ quan tiếp nhận kê khai có trách nhiệm cập nhật thông tin giá kê khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia về giá; được sử dụng mức giá kê khai trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường theo quy định; được yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá báo cáo một số yếu tố hình thành giá gây tác động đến việc điều chỉnh giá để làm cơ sở thực hiện các biện pháp quản lý, điều tiết giá.”
Việc quy định cho đối tương kê khai giá tự quyết định giá như vậy cùng với việc được phép bán không cao hơn giá kê khai sẽ dẫn đến các đầu mối kê khai giá cao hơn thực tế để tăng chi phí chiết khấu, tăng khả năng cạnh tranh trong khi cơ quan Nhà nước nhận kê khai giá chỉ có trách nhiệm cập nhật thông tin kê khai, không được quyền kiểm tra lại mức độ chính xác của giá kê khai thì không khác gì hình thức niêm yết giá nhưng lại phát sinh thêm thủ tục hành chính cho cơ quan Nhà nước. Đề xuất cho phép tiền kiểm hoặc hậu kiểm giá kê khai như sau:
“Tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng kê khai giá tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ và có trách nhiệm kê khai giá lần đầu và kê khai lại giá ngay sau khi quyết định giá và phải chịu trách nhiệm về mức độ chính xác của thông tin đã kê khai theo quy định.
Cơ quan tiếp nhận kê khai có trách nhiệm cập nhật ngay thông tin giá kê khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia về giá
Cơ quan tiếp nhận kê khai có được quyền sử dụng mức giá kê khai trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường theo quy định; Yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện kê khai giá báo cáo các yếu tố hình thành giá (hoặc phương án giá) gây tác động đến việc điều chỉnh giá để làm cơ sở thực hiện các biện pháp quản lý, điều tiết giá, thực hiện kiểm tra về mức độ chính xác của yếu tố hình thành giá đã kê khai theo quy định tại Điều 32, 33, 34 Luật này.”
Để đồng bộ, đề nghị bổ sung Khoản 6 như sau:
“6. Chính phủ quy định chi tiết Danh mục hàng hóa, dịch vụ, thẩm quyền, trách nhiệm tiếp nhận kê khai giá, hình thức đối tượng phải kiểm tra giá kê khai.”
8. Góp ý Khoản 2, Điều 30. Niêm yết giá
“Việc niêm yết được thực hiện bằng các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế tại địa điểm bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ hoặc trên các trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ; giá niêm yết phải gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ cụ thể, thông tin về đặc điểm kinh tế kỹ thuật cơ bản (nếu có) và xuất xứ (nếu có); khuyến khích in trực tiếp lên bao bì của sản phẩm. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ điều chỉnh mức giá niêm yết kịp thời ngay khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ.”
Yêu cầu “giá niêm yết phải gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ cụ thể,” là yêu cầu vượt quá mức do giá bán buôn thường được giảm dần theo số lượng, khối lượng, yêu cầu này chỉ phù hợp với các tài sản, hàng hóa có giá trị lớn, mức biến động giá không cao; Tuy nhiên đối với hàng hóa tiêu dùng có giá trị thấp phải thực hiện kê khai như vậy sẽ không phù hợp với thực tế dẫn đến đối tượng điều chỉnh thực hiện để đối phó, không đúng thực tế.
Quy định “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ điều chỉnh mức giá niêm yết kịp thời ngay khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ” là yêu cầu không phù hợp quyền định giá của tổ chức cá nhân và nguyên tắc định giá quy định tại Khoản 3 Điều 22 Nguyên tắc định giá khi quy định chỉ phải “Xem xét điều chỉnh giá khi các yếu tố hình thành giá thay đổi.” tức là không bắt buộc phải điều chỉnh ngay khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ. Đề xuất sửa thành:
“Việc niêm yết được thực hiện bằng các hình thức phù hợp với điều kiện thực tế tại địa điểm bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ hoặc trên các trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ; giá niêm yết phải gắn với số lượng hoặc khối lượng hàng hóa, dịch vụ cụ thể, thông tin về đặc điểm kinh tế kỹ thuật cơ bản (nếu có) và xuất xứ (nếu có); khuyến khích in trực tiếp lên bao bì của sản phẩm. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cần xem xét điều chỉnh mức giá niêm yết kịp thời khi có sự thay đổi về giá của hàng hóa, dịch vụ.”
9. Góp ý Điều 31. Giá tham chiếu
“1. Giá tham chiếu là mức giá đại diện của giá hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế được tổ chức có thẩm quyền công bố để các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng làm căn cứ quyết định giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tự quyết định giá bán hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở giá tham chiếu, chịu trách nhiệm về quyết định giá của mình.”
Thẩm quyền công bố giá tham chiếu là của cơ quan Nhà nước, do đó nên điều chỉnh lại và để đảm bảo quyền tự do định giá tài sản, hàng hóa dịch vụ của tổ chức cá nhân, Giá tham chiếu nên giới hạn đối tượng áp dụng, do đó cần tách đối tượng sử dụng giá tham chiếu là cơ quan Nhà nước sử dụng nguồn vốn ngân sách và đối tượng còn lại, cụ thể như sau:
“1. Giá tham chiếu là mức giá đại diện của giá hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế được cơ quan có thẩm quyền công bố để các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng vốn ngân sách, làm căn cứ quyết định giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, kê khai giá; làm căn cứ để quyết định giá tài sản, hàng hóa, dịch vụ do nhà nước quản lý giá, quyết định giá.
2. Giá tham chiếu để tổ chức, cá nhân tham khảo trong quá trình xây dựng phương án giá, tự quyết định giá tài sản, hàng hóa, dịch vụ; Tự chịu trách nhiệm về quyết định giá của mình.”
10. Góp ý Điều 41. Hoạt động thẩm định giá
1. Hoạt động thẩm định giá gồm hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá và hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.
Cần ghi rõ chủ thể của hoạt động thẩm định giá và khẳng định sản phẩm của thẩm định giá là tư vấn cho khách hàng, không thay thế quyết định của khách hàng, Đề xuất sửa như sau:
“1. Hoạt động thẩm định giá gồm: hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá quy định tại Điều 49, 50, 51 Luật này và hoạt động thẩm định giá của Nhà nước.”
11. Điều 43. Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam
11.1. Góp ý Khoản 1: “Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam là những quy định và hướng dẫn về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động thẩm định giá.”
Theo Khoản 1, 2 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật số 68/2006/QH11 ngày 29/6/2006 đang có hiệu lực quy định:
“1. Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này.
Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng.
2. Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác.
Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng.”
Do Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam hiện nay là văn bản áp dụng bắt buộc phải làm, nhưng đối chiếu theo cách giải thích trong luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật lại do “một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng” văn bản Ban soạn thảo cần cân nhắc sử dụng định nghĩa của danh từ này cho đồng hộ hoặc để tránh biến động về thói quen sử dụng, đề nghị trong Luật Giá nên đặt lại định nghĩa như sau:
“1. Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam là tiêu chuẩn cấp quốc gia bao gồm những quy định và hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động thẩm định giá do Bộ Tài chính ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng.”
11.2. Góp ý Khoản 2:
“2. Bộ Tài chính ban hành, tổ chức theo dõi thực hiện và kiến nghị bãi bỏ các quy định tại các văn bản khác, mâu thuẫn với Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.”
Đề nghị sửa thành
2. Bộ Tài chính có trách nhiệm nghiên cứu ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam; Tổ chức theo dõi thực hiện và kiến nghị bãi bỏ các quy định tại các văn bản khác mâu thuẫn với Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
12. Góp ý Điều 44. Hội nghề nghiệp về thẩm định giá
“c) Đánh giá, xếp hạng năng lực, uy tín của các doanh nghiệp thẩm định giá là hội viên và các doanh nghiệp thẩm định giá khác có nhu cầu;”
Do Hội nghề nghiệp chỉ giới hạn phạm vi quản lý đối với tổ chức, cá nhân là hội viên quy định tại Nghị định 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với hội, tránh lạm dụng ra ngoài phạm vi này, do đó đề nghị sửa thành
“c) Đánh giá, xếp hạng năng lực, uy tín của hội viên là các doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá và các hội viên khác”
13. Góp ý Điều 45. Thẻ thẩm định viên về giá
1. Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận chuyên môn trong lĩnh vực thẩm định giá tài sản hoặc thẩm định giá doanh nghiệp cấp cho người đạt yêu cầu tại kỳ thi thẩm định viên về giá.
Cần khẳng định vai trò cụ thể của thẻ thẩm định viên về giá và khả nawg hành nghề của thẩm định viên được cấp thẻ
1. Thẻ thẩm định viên về giá là chứng nhận của Bộ Tài chính cấp cho người đạt yêu cầu tại kỳ thi thẩm định viên về giá, cá nhân được cấp thẻ thẩm định viên về giá đủ điều kiện đăng ký hành nghề phù hợp với chuyên môn về thẩm định giá được phép hành nghề (ghi trong thẻ) tại doanh nghiệp thẩm định giá.
14. Góp ý Điều 46. Đăng ký hành nghề thẩm định giá
14.1. Góp ý Tiết c Khoản 1 “Có thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá, cơ quan quản lý nhà nước về giá và thẩm định giá từ đủ 36 tháng trở lên;”
Theo quy định hiện hành theo Thông tư 60/2022/TT-BTC Ngày 03/10/2022 của Bộ Tài chính danh mục các lĩnh vực và thời hạn người có chức vụ không được thành lập, điều hành doanh nghiệp quy định các lĩnh vực người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, điều hành doanh nghiệp thuộc lĩnh vực trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong đó có “Quản lý nhà nước về giá.”. Như vậy cần bổ sung thêm điều kiện hành ghề đối với đối tượng này, đề nghị sửa thành
c) Có thời gian thực tế làm việc tại các doanh nghiệp thẩm định giá; đối với cán bộ công chức cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá và thẩm định giá đã nghỉ việc tại cơ quan Nhà nước từ đủ 36 tháng trở lên nhưng không trái với các quy định về quản lý cán bộ công chức theo quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng, tổ chức cán bộ”
14.2. Góp ý Tiết c Khoản 2: “c) Người đang bị tước Thẻ thẩm định viên về giá theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.”
Đề nghị thay thế từ “tước” thành “đình chỉ”
“c) Người đang trong thời gian bị đình chỉ Thẻ thẩm định viên về giá theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.”
14.3. Góp ý Khoản 3: “Người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều này thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá với Bộ Tài chính thông qua doanh nghiệp thẩm định giá để được thông báo là thẩm định viên về giá tại chính doanh nghiệp thẩm định giá đó. Người có Thẻ thẩm định viên về giá
Đề nghị tách thành 2 nội dung và sửa thành
“Người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều này thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá tại Doanh nghiệp thẩm định giá (quy định tại Điều 49 Luật này); Doanh nghiệp thẩm định giá có trách nhiệm đăng ký hành nghề cho thẩm định viên theo quy định với Bộ Tài chính.
Người có thẻ thẩm định viên về giá chỉ được hành nghề sau khi có thông báo đủ điều kiện hành nghề tại doanh nghiệp; không được đăng ký hành nghề thẩm định giá đồng thời tại hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên; Không được ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá không đúng với phạm vi thẻ thẩm định giá được cấp, với vai trò thẩm định viên về giá nhưng không phải là thẩm định viên về giá đang đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp phát hành chứng thư thẩm định giá.”
15. Góp ý Khoản 1 Điều 47. Thẩm định viên về giá
15.1. Góp ý Khoản 1. “Thẩm định viên về giá là người có Thẻ thẩm định viên về giá đã thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá và được Bộ Tài chính thông báo là thẩm định viên về giá. Trong quá trình hành nghề thẩm định giá, thẩm định viên về giá phải duy trì điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này, nếu vi phạm thì không còn là thẩm định viên về giá.”
Cần tách trách nhiệm thẩm định viên về giá với thẩm định viên về giá hành nghề cho rõ ràng do họ có thể cung cấp dịch vụ dưới hình thức tư vấn không bắt buộc phải tuân theo Tiêu chuẩn thẩm định giá và lược bỏ quy định không có ý nghĩa. Đề xuất sửa như sau:
1. Thẩm định viên về giá là người có Thẻ thẩm định viên về giá theo Khoản 1 Điều 45 Luật này; Người được cấp thẻ thẩm định viên về giá không được hành nghề độc lập, không được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá với tư cách là thẩm định viên về giá hoạt động độc lập, cung cấp dịch vụ thẩm định giá;
Thẩm định viên về giá chỉ được hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp thẩm định giá sau khi có Thông báo của Bộ Tài chính. Trong quá trình hành nghề thẩm định giá, thẩm định viên về giá phải duy trì điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này.
15.2. Góp ý Khoản 2: “Định kỳ trước ngày 31/12 hằng năm, Bộ Tài chính thực hiện rà soát, cập nhật và thông báo danh sách thẩm định viên về giá kể từ ngày 01/01 của năm tiếp theo. Trường hợp trong năm thực hiện có biến động điều chỉnh về thẩm định viên, doanh nghiệp có trách nhiệm kịp thời báo cáo bằng văn bản gửi Bộ Tài chính xem xét, điều chỉnh. Định kỳ hằng tháng, trên cơ sở báo cáo của doanh nghiệp thẩm định giá, Bộ Tài chính xem xét, thông báo điều chỉnh danh sách thẩm định viên về giá. Trường hợp biến động thẩm định viên về giá do cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá thì danh sách thẩm định viên về giá được điều chỉnh tại ngày cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.”
Cần tách ra thành trách nhiệm cảu doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước như sau
“2. Duy trì điều kiện hành nghề thẩm định giá
a. Trách nhiệm của doanh nghiệp thẩm định giá
- Trường hợp trong năm thực hiện có biến động điều chỉnh về thẩm định viên, doanh nghiệp có trách nhiệm kịp thời báo cáo bằng văn bản gửi Bộ Tài chính xem xét, điều chỉnh.
- Trường hợp biến động thẩm định viên về giá do cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá thì danh sách thẩm định viên về giá được điều chỉnh tại ngày cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
b. Trách nhiệm của Bộ Tài chính:
- Định kỳ hằng tháng, Bộ Tài chính xem xét, thông báo điều chỉnh danh sách thẩm định viên về giá trên cơ sở đề nghị của doanh nghiệp thẩm định giá;
- Định kỳ trước ngày 31/12 hằng năm, trên cơ sở báo cáo và đăng ký của doanh nghiệp thẩm định giá, Bộ Tài chính thực hiện rà soát, cập nhật và thông báo danh sách thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện hành nghề kể từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 của năm tiếp theo.
16. Góp ý Điều 48. Quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá
16.1. Góp ý Tiết a, Khoản 1 Quyền của thẩm định viên về giá:
a) Hành nghề thẩm định giá theo quy định tại Khoản 3 (bổ sung thêm) của Luật này; ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá theo lĩnh vực tài sản được phép hành nghề mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ, điều kiện chuyên môn khác với quy định tại Luật này;
Theo quy định của Luật này chỉ chi tiết đến hoạt động thẩm định giá, các hoạt động về định giá quy định tại Khoản 4 Điều 3 không được đề cập tới, đề nghị bổ sung phạm vi hoạt động của thẩm định viên về giá để tránh các Luật khác đặt thêm điều kiện hành nghề không cần thiết, đề xuất nội dung bổ sung như sau:
Thẩm định viên về giá được phép hành nghề tư vấn thẩm định giá tài sản, hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại Khoản 3 Điều 41 Luật này
Thẩm định viên về giá được quyền thực hiện tư vấn giá, định giá cho các tài sản nêu tại Khoản 4, Điều 3 Luật này mà không cần phải tham gia các lớp đào tạo, tập huấn; không bắt buộc phải bổ sung các chứng nhận chứng chỉ, điều kiện hành nghề chuyên môn khác
Trong Luật này, phạm vi hành nghề của thẩm định viên về giá quy định ở trên, gọi chung là thẩm định giá.
16.2. Góp ý Tiết d, Khoản 1 Quyền của thẩm định viên về giá: “d) Từ chối thực hiện thẩm định giá nếu xét thấy hồ sơ, tài liệu để thực hiện thẩm định giá không đủ hoặc không đảm bảo tin cậy;”
Cần bổ sung quyền của thẩm định viên được từ chối thực hiện thẩm định giá khi nhận thấy không đủ cơ sở thẩm định giá như sau
“d) Từ chối thực hiện thẩm định giá nếu xét thấy:
- Thông tin của tài sản thẩm định giá được cung cấp để thực hiện thẩm định giá không đủ hoặc không đảm bảo tin cậy;
- Thông tin thị trường không thu thập đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam hoặc nhận thấy thông tin thị trường không đảm bảo tin cậy”
16.3. Góp ý Tiết b, Khoản 2. Nghĩa vụ của thẩm định viên về giá:
b) Chịu trách nhiệm về chuyên môn, tính chính xác, trung thực trong quá trình thực hiện và đảm bảo Báo cáo kết quả thẩm định giá tuân thủ các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam;
Trong quá trình thực hiện, trường hợp thẩm định viên nhận thấy thông tin thị trường thu thập không đầy đủ, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của quy định phải có nghĩa vụ từ chối thực hiện, đề xuất bổ sung thêm như sau:
b) Chịu trách nhiệm về chuyên môn, tính chính xác, trung thực trong quá trình thực hiện và đảm bảo Báo cáo kết quả thẩm định giá tuân thủ các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam; Trong quá trình thực hiện, nếu nhận thấy thông tin thị trường không đáp ứng được yêu cầu, không đủ cơ sở, căn cứ để lập luận, phân tích phải có nghĩa vụ từ chối thực hiện thẩm định giá.
16.4. Góp ý Tiết c Khoản 2: “Giải trình hoặc bảo vệ Báo cáo kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với khách hàng thẩm định giá hoặc bên thứ ba được sử dụng Báo cáo kết quả thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá khi có yêu cầu; giải trình Báo cáo kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật;”
Việc giải trình kết quả tư vấn là nghĩa vụ của thảm định viên, do đó không chỉ giới hạn nội dung trong Báo cáo kết quả thẩm định giá, đề xuất điều chỉnh như sau:
“Giải trình hoặc bảo vệ kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với khách hàng thẩm định giá hoặc bên thứ ba theo yêu cầu của khách hàng thẩm định giá (nếu có); giải trình kết quả thẩm định giá do mình thực hiện với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật;”
Đề nghị bổ sung thêm nghĩa vụ của thẩm định viên về giá trong trường hợp thẩm định viên chủ động vi phạm quy trình thẩm định giá, cung cấp kết quả thẩm định giá không độc lập, khách quan, cụ thể như sau:
“Thẩm định viên về giá chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước doanh nghiệp đăng ký hoạt động thẩm định giá và khách hàng thẩm định giá về kết quả thẩm định giá đã thực hiện không đảm bảo khách quan, trung thực, thông đồng trong thẩm định giá; Ngoại trừ trường hợp khách hàng thẩm định giá cố tình cung cấp thông tin sai lệch về tài sản thẩm định giá.”
17. Góp ý Khoản 2 Điều 49. Doanh nghiệp thẩm định giá
Góp ý Khoản 2. “Trường hợp doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá thì không được sử dụng cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi của doanh nghiệp.”
Cần có quy định cụ thể hơn do có trường hợp doanh nghiệp không có cụm từ “thẩm định giá” trong tên gọi vẫn hoạt động thẩm định giá và / hoặc trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá sau khi không đủ điều kiện hành nghề có bắt buộc phải đổi tên doanh nghiệp hay không???
18. Góp ý Điều 50. Điều kiện doanh nghiệp cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
18.1. Góp ý Khoản 1: “Khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp phải có ít nhất 5 người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp đồng thời phải đủ các điều kiện tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp như sau:”
Vì thẩm định viên về giá là người rồi, nên có thể viết gọn lại như sau:
“Khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp phải có ít nhất 5 thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp đồng thời phải đủ các điều kiện tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp như sau:”
18.2. Góp ý Tiết a, Khoản 1: a) Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân; Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 52 Luật này. Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên hợp danh công ty hợp danh phải là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp.
Tương tự như trên đề nghị sửa thành
a) Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân; Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 52 Luật này. Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên hợp danh công ty hợp danh phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp.”
18.3. Góp ý Tiết b Khoản 1 “b) Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 52 Luật này, đồng thời phải đáp ứng các điều kiện sau: Có ít nhất 02 thành viên góp vốn, 02 cổ đông phải là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp; trường hợp thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện phần vốn của tổ chức góp vốn phải là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp, tổng phần vốn góp của tổ chức tối đa là 35% vốn điều lệ. Tổng số vốn góp của các thành viên, cổ đông là người có Thẻ thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp.”
Theo quy định hiện hành của Luật Doanh nghiệp, trong công ty TNHH Hai thành viên còn có chức danh Chủ tịch Hội đồng thành viên Chủ tịch Hội đồng quản trị cũng có thể là người đại diện pháp luật và để tránh việc các chức danh trong doanh nghiệp được liệt kê không phải là đại diện theo pháp luật sẽ không được ký trong Chứng thư thẩm định giá, đề xuất quy định như sau
“b) Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần: Chủ tịch thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu quy định tại Điều 52 Luật này, đồng thời phải đáp ứng các điều kiện sau: Có ít nhất 02 thành viên góp vốn, 02 cổ đông phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp; trường hợp thành viên góp vốn, cổ đông là tổ chức thì người đại diện phần vốn của tổ chức góp vốn phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp, tổng phần vốn góp của tổ chức tối đa là 35% vốn điều lệ. Tổng số vốn góp hiện hữu của các thành viên, cổ đông là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp phải đảm bảo duy trì thường xuyên chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp.”
18.4. Góp ý Khoản 2. “Trường hợp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá bị mất, rách hoặc thông tin thay đổi so với thông tin trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá phải làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.”
Trường hợp thông tin thay đổi do phía doanh nghiệp cần nêu rõ chủ thể yêu cầu, đề xuất bổ sung như sau:
“Trường hợp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá bị mất, rách hoặc thông tin thực tế trong có thay đổi so với thông tin trên Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá đã được cấp, doanh nghiệp thẩm định giá phải làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.”
18.5. Góp ý Khoản 2. Điều kiện xem xét là chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá:
a) Phải có ít nhất 03 người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá tại chi nhánh của doanh nghiệp. Những người này không đồng thời đăng ký hành nghề thẩm định giá tại trụ sở chính hoặc chi nhánh khác của doanh nghiệp;
b) Người đứng đầu chi nhánh phải là người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này đăng ký hành nghề thẩm định giá tại trụ sở chính hoặc chi nhánh của doanh nghiệp.
Nội dung này bị trùng lặp so với quy định khác nên không cần thiết phải lặp lại, đồng thời không rõ ý của ban soạn thảo quy định 3 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại chi nhánh trong đó có trưởng chi nhánh nhưng vẫn có thể đăng ký tại trụ sở chính thì tổng số thẩm định viên tối thiểu tại chi nhánh chỉ là 2 thẩm định viên về giá thôi, đề nghị sửa gộp lại là:
“Phải có ít nhất 03 thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề thẩm định giá tại chi nhánh của doanh nghiệp thẩm định giá, trong đó Người đứng đầu chi nhánh đồng thời là thẩm định viên về giá.”
18.6. Góp ý Khoản 3. “Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động thẩm định giá theo quyết định bằng văn bản của doanh nghiệp thẩm định giá. Trường hợp được thực hiện toàn bộ hoạt động thẩm định giá thì chi nhánh được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đối với các hợp đồng thẩm định giá do chi nhánh ký kết với khách hàng thẩm định giá.”
Văn bản nội bộ của doanh nghiệp về việc cho phép chi nhánh được thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động thẩm định giá cần được thể hiện trong Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá do Bộ Tài chính cấp để tránh trường hợp nội bộ doanh nghiệp linh hoạt yêu cầu này, khách hàng hoặc cơ quan quản lý Nhà nước rất khó kiểm chứng, giám sát, quản lý, do đó đề nghị sửa thành:
“Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động thẩm định giá phải được thể hiện trong Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá do Bộ Tài chính cấp. Trường hợp chi nhánh được thực hiện toàn bộ hoạt động thẩm định giá thì Người đứng đầu chi nhánh được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá đối với các hợp đồng thẩm định giá do chi nhánh ký kết với khách hàng thẩm định giá.”
18.7. Góp ý Khoản 4. “Doanh nghiệp thẩm định giá chịu trách nhiệm về hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của chi nhánh.”
Do dặc thù của hoạt động thẩm định giá là chịu trách nhiệm cá nhân nên rất khó giao nhiệm vụ quản lý cho doanh nghiệp, do vậy cần quy định nhẹ hơn, đề xuất sửa như sau:
“4. Doanh nghiệp thẩm định giá chịu trách nhiệm về quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá của chi nhánh.”
19. Góp ý Điều 52. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
Trong doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp còn có chức danh Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với mô hình Công ty TNHH Hai thành viên trở lên và Chủ tịch Hội đồng quản trị đều có thể là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; quy định của điều này có thể đang không thể hiện được ý chí của đề nghị sửa lại toàn bộ Điều này như sau:
“Điều 52. Điều kiện của người ký vào kết quả thẩm định giá (Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá)
1. Người ký đại diện pháp nhân của doanh nghiệp thẩm định giá trong kết quả thẩm định giá (Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá) phải là thẩm định viên về giá đang đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp, đồng thời giữ một trong các chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được ghi trong đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.
2. Người ký đại diện pháp nhân của doanh nghiệp thẩm định giá trong kết quả thẩm định giá (Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá) không thuộc các trường hợp đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời gian 12 tháng tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá.”
20. Góp ý Điều 53. Điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
Góp ý Tiết a Khoản 2: “a) Trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp hoặc không còn đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này thì doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá; trường hợp giám đốc chi nhánh không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp hoặc không còn đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này thì chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá;”
Theo Luật Doanh nghiệp hiện hành quy định cùng một lúc doanh nghiệp có thể có nhiều đại diện theo pháp luật, nên phải có quy định giới hạn trường hợp, cụ thể như sau:
“a) Trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp hoặc không còn đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này và Doanh nghiệp thẩm định giá chỉ có duy nhất 01 đại diện pháp luật thì doanh nghiệp và chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không được phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá, kể cả trường hợp chi nhánh đủ điều kiện hoạt động độc lập.
Trường hợp giám đốc chi nhánh hoạt động độc lập không còn là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp hoặc không còn đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật này thì chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá không được độc lập phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá;”
21. Góp ý Điều 54. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá
21.1. Góp ý Tiết c Khoản 1. Quyền của doanh nghiệp thẩm định giá: “c) Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp hồ sơ, tài liệu, số liệu có liên quan đến tài sản thẩm định giá và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá;”
Do hạn chế về khả năng tiếp cận, đối chiếu với hồ sở gốc, đề nghị khách hàng đề nghị thẩm định giá phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin pháp lý, kỹ thuật của thông tin đã cung cấp làm căn cứ thẩm định giá, đề nghị bổ sung thêm như sau:
“c) Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin về đặc điểm pháp lý, kỹ thuật, thương mại … có liên quan đến tài sản thẩm định giá; Tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá;”
21.2. Góp ý Tiết a, Khoản 2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá:
“a) Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này;”
Do đặc điểm của nghề thẩm định giá là rất khó để giám sát hoạt động thẩm định giá do thẩm định viên về giá được phép hoạt độc độc lập, do đó đề nghị sửa thành:
“a) Tuân thủ quy định về quản lý hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này;”
21.3. Góp ý Tiết c, Khoản 2. “c) Xây dựng, tổ chức thực hiện kiểm soát chất lượng Báo cáo kết quả thẩm định giá để phát hành và cung cấp Chứng thư thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá;” và tiết e. “Quản lý, giám sát hoạt động của thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp;”
Đây đều là trách nhiệm quản lý hoạt động thẩm định giá nội bộ của doanh nghiệp thẩm định giá đối với đội ngũ thẩm định viên, trợ lý thẩm định viên, do đó đề nghị sửa thành:
“c) Quản lý thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp bằng các hình thức: Xây dựng quy chế hoạt động, phân công phân nhiệm nội bộ; tổ chức quy trình thực hiện kiểm soát chất lượng hoạt động thẩm định giá để nâng cao chất lượng dịch vụ; Phát hành và cung cấp Chứng thư thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá theo đúng quy định hiện hành;”
21.4. Góp ý Tiết d, Khoản 2. “Chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng thẩm định giá về chứng thư thẩm định giá đã phát hành theo hợp đồng đã ký kết trừ trường hợp khách hàng thẩm định giá cố tình cung cấp thông tin sai lệch về tài sản thẩm định giá; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá hoặc trong trường hợp hoạt động thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá;”
Doanh nghiệp thẩm định giá chỉ chịu trách nhiệm về pháp nhân trong việc bồi thường vi phạm thỏa thuận hợp đồng, tuy nhiên được miễn trừ trong trường hợp ngoài khả năng quản lý, do đó đề nghị điều chỉnh bổ sung như sau:
“Chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng thẩm định giá về chứng thư thẩm định giá đã phát hành theo hợp đồng đã ký kết trừ trường hợp khách hàng thẩm định giá cố tình cung cấp thông tin sai lệch về tài sản thẩm định giá, đơn phương vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng; có hành vi thông đồng về thẩm định giá của thẩm định viên về giá để làm sai lệch kết quả thẩm định giá; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá hoặc trong trường hợp hoạt động thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá;”
25. Góp ý Điều 55. Đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá
25.1. Góp ý Tiết b, Khoản 1. “Phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá do người không phải là thẩm định viên về giá ký với vai trò thẩm định viên về giá;”
Quy định như vậy sẽ thiếu trường hợp, đề nghị sửa thành
“Phát hành Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá do người không phải là thẩm định viên về giá ký với vai trò thẩm định viên về giá hoặc do thẩm định viên về giá ký nhưng chưa đủ điều kiện hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá;”
25.2. Góp ý khoản 3. “…Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá tại thời điểm bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá quy định tại điểm h khoản 2 Điều 54 Luật này.”
Cần nghiên cứu kỹ trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá do tại thời điểm thu hồi, cá nhân Người đại diện theo pháp luật có thể: Không chủ động tiếp tục thực hiện được nghĩa vụ này (trường hợp bị khởi tố, kết án); Người đại diện pháp luật tiếp theo có thể không phải là thẩm định viên do doanh nghiệp không còn hoạt động trong lĩnh vực có điều kiện nên cũng khó duy trì trách nhiệm này. Do đó đề xuất sửa thành:
“… Chủ doanh nghiệp của doanh nghiệp thẩm định giá sau thời điểm bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá quy định tại điểm h khoản 2 Điều 54 Luật này.”
26. Góp ý Điều 56. Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định giá
26.1. Góp ý Khoản 1. “Báo cáo kết quả thẩm định giá phải có chữ ký của thẩm định viên về giá thực hiện cuộc thẩm định giá và phê duyệt của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá.”
Do 1 hợp đồng thẩm định giá phức tạp, kéo dài có thể do nhiều người thực hiện do đó cần quy định cụ thể hơn, đề xuất sửa như sau:
“Báo cáo kết quả thẩm định giá phải có chữ ký của toàn bộ thành viên trực tiếp tham gia thực hiện thẩm định giá, trong đó tối thiếu có 01 chữ ký của thẩm định viên về giá trực tiếp thực hiện cuộc thẩm định giá và được phê duyệt của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá.”
26.2. Góp ý Khoản 2. “Chứng thư thẩm định giá phải có chữ ký của thẩm định viên về giá thực hiện cuộc thẩm định giá và do người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá ký và đóng dấu.”
Tương tự như trong Báo cáo kết qảu thẩm định giá, tuy nhiên tại Chứng thư thẩm định giá chỉ có các thẩm định viên về giá được ký, do đó đề nghị sửa thành:
“Chứng thư thẩm định giá phải có chữ ký của tất cả các thẩm định viên về giá trực tiếp thực hiện cuộc thẩm định giá và do người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá ký và đóng dấu.”
26.3. Góp ý Khoản 3. “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá được phép ủy quyền cho người quản lý doanh nghiệp ký Chứng thư thẩm định giá và xem xét, phê duyệt Báo cáo kết quả thẩm định giá. Người được ủy quyền phải là thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp”.
Đề nghị bổ sung quy định về điều kiện người được ủy quyền như sau:
“Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá được phép ủy quyền bằng văn bản cho người quản lý doanh nghiệp ký Chứng thư thẩm định giá và xem xét, phê duyệt Báo cáo kết quả thẩm định giá. Người được ủy quyền phải là thẩm định viên về giá đang đăng ký hành nghề thẩm định giá tại doanh nghiệp”.
26.4. Góp ý Khoản 4. “Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để khách hàng, người có liên quan được ghi tại hợp đồng thẩm định giá xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá của tài sản. Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời hạn hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá.”
Để khẳng định vai trò của hoạt đọng tư vấn, cần ghi rõ hơn vai trò của Kết quả thẩm định giá để khách hàng không nhầm lẫn khi sử dụng kết quả và theo quy định hiện hành, trong một số trường hợp giá kết quả thẩm định giá chỉ có giá trị tại thời điểm nhất định, do đó cần bổ sung lại quy định cụ thể như sau:
“Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá là kết quả tư vấn, được sử dụng làm một trong những cơ sở để khách hàng, bên có liên quan được ghi tại hợp đồng thẩm định giá xem xét, quyết định mức giá cuối cùng của tài sản. Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo kết quả thẩm định giá không có giá trị thay thế quyết định mức giá giao dịch và chỉ có giá trị sử dụng trong thời hạn hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá; Trong một số trường hợp mục đích thẩm định giá cụ thể như: thẩm định giá như xử phạt hành chính, tố tụng, định giá đất … có quy định về thời điểm thực hiện thẩm định giá định giá cụ thể thì kết quả của chứng thư thẩm định giá, định giá chỉ có giá trị tại thời điểm cụ thể ghi trong Chứng thư”
26.5. Góp ý Khoản 5. “Chứng thư thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 6 Luật này.”
Tương tự như nội dung đã góp ý tại Khoản 3 Điều 6, tại Điều này đề xuất sửa thành
“5. Chứng thư thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 6 Luật này hoặc các trường hợp phải giữ bí mật theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân đã thỏa thuận tại Hợp đồng thẩm định giá.”
27. Góp ý Điều 57. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng thẩm định giá
27.1. Góp ý Tiết b, Khoản 1 Quyền của khách hàng thẩm định giá: “Yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp thông tin trong hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá và thông tin về thẩm định viên về giá;”
Đề nghị sửa thành
“Yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp thông tin trong hồ sơ đăng ký hành nghề thẩm định giá và thông tin về thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hợp đồng thẩm định giá;”
27.2. Góp ý Khoản d) Yêu cầu thay thế thẩm định viên tham gia cuộc thẩm định giá khi có căn cứ cho rằng thẩm định viên đó vi phạm Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam và nguyên tắc hoạt động trung thực, độc lập, khách quan trong quá trình thực hiện thẩm định giá; yêu cầu doanh nghiệp cung cấp báo cáo kết quả thẩm định giá;
Quy định như vậy dễ dẫn đến hiểu nhầm là Chứng thư thẩm định giá gửi khác hàng không bắt buộc kèm theo Báo cáo kết quả thẩm định giá, đề nghị bỏ câu nhạy cảm, sửa thành:
“d) Yêu cầu thay thế thẩm định viên tham gia cuộc thẩm định giá khi có căn cứ cho rằng thẩm định viên đó vi phạm Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam và nguyên tắc hoạt động trung thực, độc lập, khách quan trong quá trình thực hiện thẩm định giá;”
27.3. Góp ý Tiết “đ) Yêu cầu bồi thường trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá có hành vi vi phạm gây thiệt hại;”
Do giá trị hợp đồng thẩm định giá rất thấp so với giá trị tài sản thẩm định giá, do đó cần giới hạn giá trị bồi thường theo quy định của pháp luật, đề xuất sửa thành:
“đ) Yêu cầu bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá có hành vi vi phạm gây thiệt hại;”
28. Góp ý Điều 58. Giá dịch vụ thẩm định giá
“Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý theo quy định của pháp luật về thuế để thực hiện các công việc theo tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam; lợi nhuận (nếu có) phù hợp với mặt bằng thị trường, cung cầu của dịch vụ thẩm định giá và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá; trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.”
Do doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp tư nhân, thành lập và hoạt động vì lợi nhuận do đó việc xác định lợi nhuận là tất yếu, đề nghị điều chỉnh lại như sau:
“Bảng giá dịch vụ thẩm định giá niêm yết công khai của doanh nghiệp thẩm định giá chỉ có tính tham khảo; Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí thực tế và lợi nhuận kỳ vọng để đảm bảo thực hiện các công việc theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam; đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh, cung cầu thị trường và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá; Trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.”
29. Góp ý Điều 60. Phạm vi thẩm định giá của Nhà nước
Góp ý Tiết b, Khoản 1. Thẩm định giá của Nhà nước để phục vụ cho các một trong các hoạt động sau:
“b. Các trường hợp mua, đi thuê tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phê duyệt giá theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, đấu thầu lựa chọn phương thức thẩm định giá của nhà nước trong các phương thức được quy định làm căn cứ xác định giá.”
Để đảm bảo phù hợp với định nghĩa và không thiếu tài sản cần thẩm định giá Nhà nước, cần bổ sung như sau:
“b. Các trường hợp mua, đi thuê tài sản, hàng hóa, dịch vụ từ nguồn ngân sách nhà nước mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phê duyệt giá theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, đấu thầu lựa chọn phương thức thẩm định giá của nhà nước trong các phương thức được quy định làm căn cứ xác định giá.”
Trên đây là một số ý kiến đóng góp vào dự thảo luật trên cơ sở thực tiễn khách quan đã được trải nghiệm trong quá trình hoạt động xin được gửi tới ban soạn thảo Luật Giá tham khảo, xem xét để Luật Giá sửa đổi chính thức ban hành được sát với thực tế, tạo thuận lợi cho các đối tượng có liên quan, phù hợp với lý thuyết về giá cả và đặc điểm, tập quán thương mại của thị trường Việt Nam.
Nơi gửi: - Như kính gửi - Lưu VAI |
GIÁM ĐỐC (đã ký) Ngô Gia Cường |