VIETNAM APPRAISAL AND INSPECTION Co.ltd
23/11/2024 16:21:26
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
--------------------------------
THAM LUẬN
GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT GIÁ (SỬA ĐỔI)
(Dự thảo lấy ý kiến tháng 4/2023)
Căn cứ công văn số 45/ĐĐBQH-VP ngày 20/4/2023 của Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội về việc góp ý vào Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) tháng 4/2023.
Trên cơ sở kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực giá của tôi gửi Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, chúng tôi thực hiện tham gia góp ý chung và góp ý trực tiếp vào từng điểu khoản cụ thể như sau:
I. GÓP Ý CHUNG
1. Cần phân biệt nghĩa vụ của pháp nhân và cá nhân trong quy định các điều cấm
Trong dự thảo chưa phân biệt rõ được vai trò của pháp nhân và cá nhân, Theo Điều 75, Điều 83 của Bộ Luật Dân sự 2015, Pháp nhân là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội… theo quy định của pháp luật trong đó cơ quan Nhà nước cũng đủ các điều kiện được coi là một pháp nhân; Đây là một khái niệm dùng để phân biệt với thể nhân (cá nhân) và các tổ chức khác. Pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm về dân sự do người đại diện pháp nhân, nhân danh pháp nhân thực hiện mà không chịu trách nhiệm hình sự do người đại diện Pháp nhân gây ra.
Tại phần Mục 2 quy định về Thẩm định giá, Dự thảo đang lẫn lộn hành vi của doanh nghiệp thẩm định giá với người đại diện theo pháp luật hay quy định những điều mà Pháp nhân tức là cơ quan Nhà nước, Hội đồng định giá, thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá hay khách hàng là tổ chức bị cấm thực hiện đều là các hành vi vi phạm luật hình sự, hành vi gây ra do đại diện pháp nhân thực hiện mà không phải là hành vi của pháp nhân phải chịu trách nhiệm
Kiến nghị: Dự thảo cần nghiên cứu tách hành vi của cá nhân (người đại diện theo pháp luật, thẩm định viên) với hành vi của pháp nhân cho phù hợp với luật hình sự và bộ luật dân sự cụ thể tại Điều 7 Các hành vi bị nghiêm cấm, Điều 47, quy định về quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá hành nghề và Điều 53 quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá
2. Quan điểm về phân biệt vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của hoạt động định giá và thẩm định giá tương ứng với định giá Nhà nước và Thẩm định giá Nhà nước
2.1. Hoạt động định giá
Theo Khoản 11, Điều 4 Dự thảo định nghĩa:
“11. Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quyết định giá của hàng hóa, dịch vụ.”
Như vậy hoạt động định giá là Người thực hiện nghiệp vụ xác định giá theo nghiệp vụ (hoặc được thuê tư vấn làm thay) có quan hệ về sở hữu, quyền sử dụng, nguồn vốn … với tài sản thẩm định giá và bị ràng buộc bởi các quy tắc hoặc quyền lợi nhất định; Cụ thể như hoạt động định giá của cơ quan Nhà nước đương nhiên phải ưu tiên áp dụng, vận dụng các văn bản quy định hiện hành về khung giá, bảng giá, đơn giá định mức … theo nguyên tắc bảo toàn vốn, có lợi cho ngân sách, không vượt quá đơn giá định mức theo định hướng nhất định; Đối với tổ chức cá nhân được quyền định giá tài sản thuộc sở hữu, dịch vụ do mình cung cấp trên cơ sở bù đắp chi phí và có lãi nhưng phải đảm bảo nguyên tắc cung cầu, cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu, khả năng, thị hiếu của thị trường để có thể tiêu thụ được hàng hoá, cung cấp được dịch vụ bằng cách chủ động điều chỉnh lợi nhuận kỳ vọng.
Cơ quan định giá Nhà nước thẩm tra lại kết quả tư vấn của tổ chức cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo nguyên tắc thị trường để quyết định một mức giá áp đặt với đối tượng, trường hợp cụ thể (Hội đồng định giá, thẩm định giá Nhà nước) mà đối tượng áp dụng không có quyền thay đổi (hoặc khiếu nại) hoặc từ bỏ chứ không có quyền thương lượng; Ví dụ như: định giá đất cụ thể để tính tiền thuê đất, giao đất; bảng giá đất, giá đất giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư; đơn giá định mức chi tiêu ngân sách; định giá các sản phẩm công ích; phí, lệ phí …. Đối với tổ chức Tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn công thức, phương pháp về xác định giá hàng hoá dịch vụ hiện hành để quyết định bán hàng hoá, dịch vụ, tuy nhiên có thể chủ động thượng giá trị thoả thuận cuối cùng. Các hoạt động này đều thể hiện mối quan hệ trực tiếp đến quyền quyết định giá trị tài sản cuối cùng cảu các bên theo Bộ luật Dân sự.
Hiện nay vẫn đang có hệ thống các văn bản hướng dẫn chuyên ngành của hoạt động định giá như Hướng dẫn định giá hàng hoá dịch vụ theo Thông tư 25/2014/TT-BTC quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ của Bộ Tài chính hoặc văn bản hướng dẫn định giá đất theo Nghị định số 44/2014/NĐ-CP của Chính phủ về xác định giá đất và Thông tư 36/2014/TT-BTNMT; Nghị định 30/2018/NĐ-CP Nghị định quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Thông tư số 30/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 30/2018/NĐ-CP; Quyết định 16/2021/QĐ-TTg cảu Thủ tướng về đấu giá kho viễn thông … có quy định về định giá khác với Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam.
2.2. Hoạt động thẩm định giá (mục 3)
Theo Khoản 16 Điều 4 của Dự thảo quy định: “Thẩm định giá là hoạt động tư vấn xác định giá trị bằng tiền của tài sản thẩm định giá tại một địa điểm, thời điểm, phục vụ cho mục đích nhất định theo Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam do doanh nghiệp thẩm định giá, hội đồng thẩm định giá thực hiện.”
Hoạt động thẩm định giá là tư vấn độc lập, khách quan với tài sản thẩm định giá trên cơ sở thông tin thị trường, áp dụng các phương pháp định giá phù hợp theo hướng dẫn trong Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam và người thực hiện (tổ chức thẩm định giá) chỉ được hưởng thu nhập từ giá trị hợp đồng thẩm định giá đã thoả thuận; Kết quả thẩm định giá chỉ có vai trò để khách hàng và các bên liên quan có cơ sở thoả thuận tiếp, không bắt buộc áp dụng. Tương ứng với hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá, các Hội đồng thẩm định giá Nhà nước cũng cần tuân thủ độc lập, khách quan này và chỉ thực hiện đối với các tài sản đảm bảo các yêu cầu chuyên môn về quyền hạn, trách nhiệm tương ứng của Hội đồng.
Trong các nội dung của Dự thảo không thể hiện được sự khác biệt nêu trên, dẫn đến một số quy định không tách biệt rõ ràng, lẫn lộn giữa định giá và thẩm định giá Nhà nước hoặc giữa định giá nhà nước và định giá của tổ chức, cá nhân. Hoạt động thẩm định giá Nhà nước chỉ thực hiện với các tài sản có liên quan đến nguồn gốc, nguồn vốn ngân sách, nghiệp vụ thẩm định giá Nhà nước phải được thực hiện như dịch vụ thẩm định giá (hoặc thẩm tra lại kết quả tư vấn của doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện) với những tài sản hàng hoá, dịch vụ phải thẩm định giá.
Hoạt động tư vấn định giá hay tư vấn thẩm định giá là sử dụng nguồn lực ngoài Nhà nước để thực hiện nghiệp vụ một cách đầy đủ, sau đó Hội đồng (người thuê) thẩm tra lại các hoạt động tư vấn đã đảm bảo đúng quy trình hay không. Hội đồng chỉ được trực tiếp thực hiện khi không thể thuê được tổ chức tư vấn là cho phép giản lược nghiệp vụ chuyên môn do các yếu tố không chuyên trách, thiếu nhân lực … có thể tác động đến quyết định giá cuối cùng.
2.3. Kiến nghị
Như vậy, nên xác định rõ tên của từng Hội đồng theo đối tượng chứ không nên đánh đồng tên gọi chung, ví dụ:
Hội đồng Thẩm định giá Nhà nước bao gồm: Hội đồng Thẩm định giá Nhà nước trong tố tụng dân sự; Hội đồng thẩm định giá trong tố tụng hình sự; Hội đồng thẩm định giá Nhà nước trong thi hành án dân sự; Hội đồng thẩm định giá Nhà nước trong hình sự …
Hội đồng định giá Nhà nước bao gồm: các hội đồng theo danh mục tại Phụ lục số 02 kèm theo Dự thảo Hội đồng định giá đất cụ thể; Hội đồng định giá tài sản tịch thu sung công quỹ; Hội đồng định giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; Hội đồng định giá Nhà nước về giá nước sạch; Hội đồng định giá Nhà nước về giá điện; …
Các Hội đồng có thể tự thực hiện nghiệp vụ định giá, thẩm định giá theo đúng văn bản quy định quy trình thực hiện trường hợp không đủ nhân lực có thể ký hợp đồng với các tổ chức tư vấn thực hiện thay cho Hội đồng bằng nghiệp vụ Định giá nếu có văn bản chuyên ngành yêu cầu để ban hành kết quả tư vấn định giá hoặc tư vấn thẩm định giá theo Chuẩn mực thẩm định giá.
II. GÓP Ý CỤ THỂ VÀO TỪNG ĐIỀU KHOẢN CỦA DỰ THẢO
1. Góp ý Điều 6. Công khai thông tin về giá, thẩm định giá
1.1. Góp ý Tiết c, Khoản 1: “c) Danh sách doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thẩm định viên về giá; danh sách doanh nghiệp thẩm định giá bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá; danh sách người bị tước, thu hồi Thẻ”
Từ “tước” rất ít được sử dụng và dễ nhầm lẫn với thu hồi, đề nghị sửa thành “đình chỉ” thường được hiểu là tạm dừng có thời hạn, sẽ có nghĩa phù hợp hơn, dễ phân biệt với thu hồi không thời hạn có mức độ nặng hơn.
1.2. Góp ý Tiết a, Khoản 2: “a) Giá cụ thể hàng hóa, dịch vụ do các tổ chức, cá nhân tự định giá trong khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;”
Quy định như vậy sẽ phải yêu cầu Nhà nước ban hành khung giá, giá tối đa, tối thiểu cho tất cả các tài sản, hàng hóa dịch vụ lưu thông trong xã hội, đề nghị sửa thành:
“Giá cụ thể hàng hóa, dịch vụ do các tổ chức, cá nhân tự định giá; Đối với những mặt hàng Nhà nước quản lý về giá, giá công khai phải có giá toàn bộ nằm trong khung giá hoặc không cao hơn giá tối đa hoặc không thấp hơn giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.”
1.3. Góp ý Khoản 5
Đề nghị bổ sung thêm đối tượng là “tổ chức, cá nhân” để tránh hiểu nhầm “cơ quan, đơn vị” chỉ áp dụng cho cơ quan nhà nước
“5. Công khai bằng hình thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân hoặc các hình thức phù hợp khác. Đối với các trường hợp tại điểm b khoản 1 Điều này thì công khai bằng hình thức gửi văn bản đến các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan; đối với các nội dung quy định tại điểm b, c khoản 1 và điểm a, b khoản 2 Điều này thì công khai bằng hình thức cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về giá.”
2. Góp ý Điều 7. Các hành vi bị nghiêm cấm
2.1. Góp ý Khoản 1: Đối với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá; cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá: đề nghị bổ sung thâm hành vi bị cấm như sau:
“d) Cố tình kéo dài thời gian hoặc không xem xét, điều chỉnh giá cụ thể, khung giá, giá tối thiểu, giá tối đa theo đề nghị điều chỉnh của tổ chức, cá nhân có kèm theo các thông tin biến động của các yếu tố hình thành giá cụ thể trên thị trường theo đúng thẩm quyền.”
2.2. Góp ý Tiết b Khoản 2
Có tình huống là thông tin đã công khai nhưng khi giao dịch thực tế lại thay đổi giá hoặc hàng hóa không tương ứng
“b) Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết trong các giao dịch hoặc đã công khai mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, phương thức vận chuyển, thanh toán, chất lượng; số lượng, tính năng, công dụng, hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ;”
2.3. Góp ý Tiết c Khoản 2: “c) Lợi dụng thảm họa, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ không phù hợp với biến động của giá thành toàn bộ so với điều kiện bình thường nhằm trục lợi;”
Quy định như vậy sẽ lấy đi quyền tự do kinh doanh lợi nhuận chính đáng của tổ chức cá nhân khi có thể dự báo trước và dự trữ hàng hóa, tài sản trước khi xảy ra “thảm họa, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh” lợi nhuận bất thường này cũng tương ứng với rủi ro khi phán đoán sai dẫn đến thua lỗ. Cụm từ “giá thành toàn bộ” của nội dung này dễ được hiểu là giá thành toàn bộ của hàng hóa, dịch vụ đã hạch toán kế toán cảu doanh nghiệp mà khong dựa trên thôgn tin thị trường cần sửa thành
“Lợi dụng thảm họa, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh để tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ không phù hợp với biến động của các yếu tố hình thành giá có liên quan trên thị trường trong và sau thời điểm xảy ra thảm họa, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh;”
2.4. Góp ý Tiết e Khoản 2: “e) Làm, cung cấp chứng thư thẩm định giá khi không đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá hoặc sử dụng chứng thư đó cho mục đích quy định tại khoản 4 Điều 55 Luật này.”
Không rõ ý đoạn sau của Ban soạn thảo “hoặc sử dụng chứng thư đó cho mục đích quy định tại khoản 4 Điều 55 Luật này” trong khi Khoản 4 Điều 55 quy định
4. Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để khách hàng, người có liên quan được ghi tại hợp đồng thẩm định giá xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá của tài sản. Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời hạn hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá.
2.5. Đề nghị bổ sung thêm điều cấm:
Một thời gian dài các nhà phân phối khi biết có dự án và tiếp cận được thông tin của dự án mua sắm thường xin giấy cung cấp độc quyền sản phẩm, mã dự án vào dự án đó tạo thế độc quyền cung cấp và khóa thông tin giá, chủ đầu tư và tư vấn giá không thể thu thập được giá thị trường, cùng với hồ sơ mời thầu có cài các tiêu chí chỉ định dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến tiêu cực, giảm hiệu quả hoạt động đấu thầu, đề nghị bổ sung điều cấm như sau:
“Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, phân phối; chi nhánh, đại lý độc quyền, văn phòng đại diện của nhà sản xuất đưa ra các chính sách về tiêu chí kỹ thuật, điều kiện thương mại … đặc thù nhằm bảo hộ, tạo thế độc quyền cung cấp sản phẩm cho khách hàng, dự án, thị trường cụ thể, hạn chế cung cấp thông tin giá ra thị trường.”
2.6. Góp ý Khoản 3: Đối với doanh nghiệp thẩm định giá:
Như đã phân tích về trách nhiệm pháp lý của tổ chức là chỉ chịu trách nhiệm dân sự mà không chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của người đại diện gây ra được phân tích tại mục I.1 văn bản này; Đề nghị nên nhập khoản 3, khoản 4 thành 1 Khoản, sửa như sau:
3. Đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá, trợ lý thẩm định viên về giá
a) Tranh giành khách hàng dưới hình thức ngăn cản, đe dọa, lôi kéo, mua chuộc; hạ giá dịch vụ để cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật về cạnh tranh; thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá;
b) Mua chuộc, đưa hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ hoặc thông đồng về giá, thẩm định giá.
c) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ khách hàng thẩm định giá ngoài mức giá dịch vụ đã được thoả thuận trong hợp đồng để làm sai lệch kết quả khi thực hiện thẩm định giá;
d) Cung cấp dịch vụ thẩm định giá cho khách hàng thẩm định giá là người có liên quan theo quy định của Luật Doanh nghiệp;
đ) Kê khai không chính xác, không trung thực, giả mạo hồ sơ đăng ký cấp, cấp lại giấy chứng nhận đủ kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá, hồ sơ đăng ký hành nghề của thẩm định viên về giá; Thông tin không chính xác về trình độ, kinh nghiệm và khả năng cung cấp dịch vụ của thẩm định viên về giá, doanh nghiệp thẩm định giá;
e) Phát hành chứng thư thẩm định giá nhưng không thực hiện hoạt động thẩm định giá.
f) Giả mạo, cho thuê, cho mượn Thẻ thẩm định viên về giá; sử dụng Thẻ thẩm định viên về giá trái với quy định tại Luật này và pháp luật có liên quan;
g) Ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá không đúng với lĩnh vực, doanh nghiệp thẩm định giá được thông báo hành nghề;
h) Lập Báo cáo thẩm định giá nhưng không thực hiện hoạt động thẩm định giá.
2.7. Góp ý Khoản 5, 6 như sau:
Như đã phân tích về trách nhiệm pháp lý của tổ chức là chỉ chịu trách nhiệm dân sự mà không chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của người đại diện gây ra được phân tích tại mục I.1 văn bản này;Nên nhập Khoản 5, 6 thành 1 Khoản như sau:
“5. Đối với Chủ tịch, Phó chủ tịch, thành viên Hội đồng thẩm định giá:
a) Chủ tịch, Phó chủ tịch có hành vi chỉ đạo, can thiệp vào hoạt động thẩm định giá làm ảnh hưởng đến tính độc lập về chuyên môn của thành viên hội đồng thẩm định giá;
b) Mua chuộc, đưa hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ hoặc thông đồng về giá, thẩm định giá;
c) Nhận hoặc yêu cầu bất kỳ một khoản tiền hoặc lợi ích khác từ người có liên quan để làm sai lệch kết quả khi thực hiện thẩm định giá;
d) Lập Thông báo kết quả thẩm định giá nhưng không thực hiện hoạt động thẩm định giá.
e) Lập khống tài liệu liên quan đến việc khảo sát, thu thập thông tin về tài sản thẩm định giá.”
2.8. Góp ý Khoản 7: Đối với khách hàng thẩm định giá và bên thứ ba có tên trong hợp đồng thẩm định giá:
Quy định “Bên thứ có tên trong hợp đồng” hầu như chưa xác định khi soạn thảo hợp đồng và không xác định được hết đối tượng điều chỉnh, nên sửa thành:
“7. Đối với khách hàng thẩm định giá và bên có liên quan:”
3. Góp ý Điều 8 Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
3.1. Góp ý Khoản 2: “Định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh theo khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.”
Quy định như vậy Nhà nước sẽ phải ban hành toàn bộ khung giá, giá tối đa, tối thiểu đối với tất cả hàng hóa, dịch vụ lưu thông là sai, đề nghị sửa thành:
“Định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất; Đối với những mặt hàng Nhà nước quản lý về giá phải có mức giá toàn bộ nằm trong khung giá hoặc không cao hơn giá tối đa hoặc không thấp hơn giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; kinh doanh theo khung giá, giá tối đa, giá tối thiểu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.”
3.2. Góp ý Khoản 3: “Tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình kinh doanh trên cơ sở tham khảo giá tham chiếu được công bố”
Trường hợp Nhà nước chưa công bố được giá tham chiếu và để không vi phạm quyền tự do định giá, quy định này là không cần thiết, có thể bỏ hoặc nên sửa thành:
“Tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình kinh doanh trên cơ sở tham khảo giá tham chiếu được công bố (nếu có)”.
3.3. Góp ý Khoản 5: “Hạ giá bán hàng hóa, dịch vụ mà không bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh tranh và pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu, đồng thời phải niêm yết công khai tại nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời hạn hạ giá đối với các trường hợp sau:
Cần điều chỉnh lại để đảm bảo quyền của tổ chức cá nhân trong thỏa thuận mua bán và ứng với quyền định giá của người bán và quyền của người tiêu dùng:
“Được quyền thỏa thuận điều chỉnh giá bán so với giá đã niêm yết, đã kê khai với người mua hàng hóa, dịch vụ trong các hợp đồng mua bán theo điều kiện cụ thể nhưng đảm bảo không vi phạm pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về chống phá giá hàng nhập khẩu, không vi phạm quy định về quản lý giá của Nhà nước đối với hàng hóa, dịch vụ phải áp dụng khung giá, giá tối đa, tổi thiểu, giá, Đối với các trường hợp hàng hóa, dịch vụ sau đây khi thay đổi giá bán phải kịp thời niêm yết công khai tại nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời hạn điều chỉnh giá (nếu có):”
3.4. Góp ý Khoản 6: “Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá.”
Đề nghị bổ sung thêm trường hợp cơ quan Nhà nước phải điều chỉnh giá
“Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, khung giá, giá tối thiểu, giá tối đa.”
4. Góp ý Điều 9 Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
Góp ý Khoản 6. “Công khai thông tin về giá hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.”
Cần bổ sung thông tin về chất lượng tương ứng với giá bán, để nghỉ sửa thành:
“Công khai thông tin về chất lượng tương ứng với giá của hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.”
5. Góp ý Điều 10. Quyền của người tiêu dùng
Đề nghị bổ sung thêm quyền của người tiêu dùng vào Khoản 3 như sau:
“3. Được yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông tin về giá, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ, hóa đơn bán hàng theo quy định của pháp luật; Từ chối mua hàng hóa dịch vụ trong trường hợp không được người bán cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết về hàng hóa, dịch vụ để có thể quyết định giá mua”
6. Góp ý Điều 28. Kê khai giá
Góp ý Khoản “Tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng kê khai giá tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ, có trách nhiệm kê khai giá lần đầu và kê khai lại giá sau khi quyết định giá theo quy định và chịu trách nhiệm về mức giá, nội dung kê khai giá của mình. Cơ quan tiếp nhận kê khai có trách nhiệm cập nhật thông tin giá kê khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá; được sử dụng mức giá kê khai trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường theo quy định; được yêu cầu các tổ chức thực hiện kê khai giá báo cáo một số yếu tố hình thành giá gây tác động đến việc điều chỉnh giá để làm cơ sở thực hiện các biện pháp quản lý, điều tiết giá.”
Dự thảo Luật quy định về kê khai giá nhưng không có quy định công tác tiền kiểm, hậu kiểm về mức độ chính xác trong phương án giá có phù hợp với hồ sơ hay không dẫn đến yêu cầu kê khai giá mang tính thủ tục, không khác với niêm yết giá.
Mặc dù tại các Điều 31, 32, 33 của Dự thảo đã đưa ra Mục đích, yêu cầu kiểm tra yếu tố hình thành giá; Thẩm quyền, trách nhiệm kiểm tra yếu tố hình thành giá; Thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá, tuy nhiên các trường hợp phải thực hiện kiểm tra yếu tố hình thành giá lại rất hạn chế, vô hình chung hỗ trợ cho người bán hợp thức việc nâng khống giá hàng hóa dịch vụ. Đề nghị bổ sung quy định về kiểm tra thông tin kê khai giá để phân biệt với niêm yết giá, đề nghị bổ sung như sau:
“5. Tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng kê khai giá tự quyết định giá hàng hóa, dịch vụ, có trách nhiệm kê khai giá lần đầu và kê khai lại giá sau khi quyết định giá theo quy định và chịu trách nhiệm về mức giá, nội dung kê khai giá của mình. Cơ quan tiếp nhận kê khai có trách nhiệm cập nhật thông tin giá kê khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá và thực hiện kiểm tra thông tin giá đã kê khai trong trường hợp nhận thấy có nội dung kê khai không đúng thực tế, mẫu thuẫn với hồ sơ kê khai hoặc thông tin thị trường có liên quan và phù hợp với quy định tại Điều 31, 32, 33 Luật này; được sử dụng mức giá kê khai trong công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường theo quy định; được yêu cầu các tổ chức thực hiện kê khai giá báo cáo một số yếu tố hình thành giá gây tác động đến việc điều chỉnh giá để làm cơ sở thực hiện các biện pháp quản lý, điều tiết giá”
7. Góp ý Điều 30. Giá tham chiếu
1. Giá tham chiếu là mức giá của hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công bố để các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng làm cơ sở khi quyết định giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
Nên đổi cụm từ “làm cơ sở” có tính bắt buộc thành “tham khảo để” tôn trọng quyền định giá của tổ chức, các nhân quy định tại Khoản 2 điều này
1. Giá tham chiếu là mức giá của hàng hóa, dịch vụ tại thị trường trong nước hoặc quốc tế do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công bố để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham khảo khi quyết định giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
8. Góp ý Điều 45. Đăng ký hành nghề thẩm định giá
8.1. Góp ý Tiết c, Khoản 2: Đối tượng không được hành nghề thẩm định giá:
c) Người đang bị tước Thẻ thẩm định viên về giá theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Nên thay từ “tước” bằng từ “đình chỉ” và sửa thành:
“Người bị thu hồi thẻ hoặc đang trong thời gian đình chỉ hành nghề thẩm định giá theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”.
8.2. Góp ý Khoản 3. “Người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều này thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá với Bộ Tài chính thông qua doanh nghiệp thẩm định giá để được thông báo là thẩm định viên về giá tại chính doanh nghiệp thẩm định giá đó. Người có Thẻ thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp được đăng ký hành nghề cả hai lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật này. Người có Thẻ thẩm định viên về giá không được đăng ký hành nghề thẩm định giá đồng thời tại hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên, không được ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá với vai trò thẩm định viên về giá khi không là thẩm định viên về giá đang đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá phát hành Kết quả thẩm định giá.”
Bổ sung thêm cho cụ thể vì vẫn có trường hợp là thẩm định viên đăng ký hành nghề ở nơi khác ký chứng thư báo cáo TĐG, đề nghi bổ sung như sau:
“Người có Thẻ thẩm định viên về giá đủ các điều kiện đăng ký hành nghề thẩm định giá quy định tại khoản 1 Điều này thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá với Bộ Tài chính thông qua doanh nghiệp thẩm định giá để được thông báo là thẩm định viên về giá tại chính doanh nghiệp thẩm định giá đó. Người có Thẻ thẩm định viên về giá trong lĩnh vực thẩm định giá doanh nghiệp được đăng ký hành nghề cả hai lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật này. Người có Thẻ thẩm định viên về giá không được đăng ký hành nghề thẩm định giá đồng thời tại hai doanh nghiệp thẩm định giá trở lên, không được ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá với vai trò thẩm định viên về giá khi không là thẩm định viên về giá đang đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá phát hành Kết quả thẩm định giá.”
9. Góp ý Điều 46. Thẩm định viên về giá
Góp ý Khoản 1. “Thẩm định viên về giá là người có Thẻ thẩm định viên về giá đã thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá và được Bộ Tài chính thông báo là thẩm định viên về giá”.
Để phân biệt với người có thẻ thẩm định viên về giá vẫn có thể gọi là thẩm định viên về giá nhưng không được hành nghề không cần phải quản lý với Thẩm định viên về giá có đăng ký hành nghề, cần bổ sung quy định đối với thẩm định viên đăng ký hành nghề, còn với thẩm định viên không đăng ký hành nghề thì không cần quản lý nhà nước, cần tách bạch đối tượng như sau:
“Thẩm định viên về giá là người có Thẻ thẩm định viên về giá; Thẩm định viên về giá hành nghề là người có thẻ thẩm định viên về giá đã thực hiện đăng ký hành nghề thẩm định giá và được Bộ Tài chính thông báo đang là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại một doanh nghiệp thẩm định giá.”
Tương ứng với cách gọi tên, phân biệt này, nên có thêm danh từ “Thẩm định viên về giá hành nghề” trong các nội dung tiếp theo.
10. Góp ý Điều 47. Quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá
10.1. Góp ý Tiết a, Khoản 1. Quyền của thẩm định viên về giá:
“a) Hành nghề thẩm định giá theo quy định của Luật này; ký Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá theo lĩnh vực tài sản được phép hành nghề mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ, điều kiện chuyên môn khác với quy định tại Luật này;”
Trong “luật này” không có nội dung liên quan đến quy định về hoạt động tư vấn định giá nêu tại Khoản 4 Điều 3 như hoạt động định giá đất … nên ghi như vậy thẩm định viên về giá hành nghề sẽ không thể thực hiện cung cấp dịch vụ định giá khác, đề nghị sửa cụ thể hơn như sau:
“a) Hành nghề thẩm định giá theo quy định của Luật này; Thực hiện nghiệp vụ thẩm định giá theo lĩnh vực tài sản được phép hành nghề; Thực hiện nghiệp vụ Định giá, Tư vấn giá trong các lĩnh vực quy định tại Khoản 4, Điều 3 Luật này theo quy định chuyên ngành mà không phải trang bị thêm các chứng chỉ, điều kiện chuyên môn khác;”
10.2. Góp ý Tiết b Khoản 2. Nghĩa vụ của thẩm định viên về giá: “Chịu trách nhiệm về chuyên môn, tính chính xác, trung thực trong quá trình thực hiện và đảm bảo Báo cáo thẩm định giá tuân thủ các Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam”
Bổ sung quy định này để thẩm định viên về giá hành nghề được quyền tham gia tư vấn định giá đất theo Luật Đất đai và các trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 3, cụ thể như sau:
“Chịu trách nhiệm về chuyên môn, tính chính xác, trung thực trong quá trình thực hiện và đảm bảo Báo cáo thẩm định giá tuân thủ các Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam và các quy định về định giá chuyên ngành khác có liên quan nêu tại Khoản 4 Điều 3 Luật này;”
11. Góp ý Điều 51. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá
Góp ý Tiết đ Khoản 1: “Không thuộc các trường hợp đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời gian 12 tháng tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”.
Cần có quy định rõ hơn về thười gian đã giữ đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá vì có thể vi phạm luật lao động trong trường hopwj các pháp nhân bị thu hồi nhưng cá nhân không liên quan đến hành vi vi phạm và cá nhân đó có thể thôi việc trước thời điểm bị thu hồi, nên sửa thành: “Không thuộc các trường hợp đã giữ vị trí người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp thẩm định giá, người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá trực tiếp liên quan đến hành vi dẫn đến bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong thời gian 12 tháng tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá”.
12. Góp ý Điều 53. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá
12.1. Góp ý Tiết a, Khoản 1: “Cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo quy định tại Luật này;”
Cần thêm quy định này để hạn chế các bộ, ngành thường ban hành các quy định (giấy phép con) có liên quan đến hoạt động tư vấn giá, đề nghị sửa thành:
“a) Cung cấp dịch vụ thẩm định giá phù hợp với Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thẩm định giá và cung cấp dịch vụ định giá, tư vấn giá trong các lĩnh vực quy định tại Khoản 4, Điều 3 Luật này mà không phải trang bị, đào tạo hay phải có thêm giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề khác”
12.2. Góp ý Tiết c, Khoản 1: c) Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp hồ sơ, tài liệu, số liệu có liên quan đến tài sản thẩm định giá và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thẩm định giá;
Đề nghị sửa cho đủ trường hợp như sau:
“c) Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp hồ sơ, tài liệu, số liệu có liên quan đến tài sản thẩm định giá đúng, đủ, kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi để thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp thực hiện thẩm định giá;”
12.3. Góp ý Tiết a, Khoản 2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá: “a) Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật này;”
Đề nghị ghi rõ doanh nghiệp chỉ có thể trách nhiệm “quản lý” hoạt động thẩm định giá, tương ứng với trách nhiệm liên quan đến mức độ chính xác của kết quả tư vấn là trách nhiệm của thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp, không quy định quá chung chung như dự thảo
“a) Tuân thủ quy định về quản hoạt động thẩm định giá, định giá, tư vấn giá theo quy định của Luật này;”
12.4. Góp ý Tiết d Khoản 2: “Chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng thẩm định giá về Chứng thư thẩm định giá đã phát hành theo hợp đồng đã ký kết trừ trường hợp khách hàng thẩm định giá cố tình cung cấp thông tin sai lệch về tài sản thẩm định giá; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá hoặc trong trường hợp hoạt động thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá;”
Cần quy định thêm điều này để tránh trường hợp cá nhân thẩm định viên và/hoặc trợ lý có hành vi thông đồng về giá dẫn đến phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng doanh nghiệp vẫn bị thu hồi chứng nhận điều kiện hành nghề, đề nghị sửa như sau:
d) Chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng thẩm định giá về kết quả tư vấn đã phát hành theo hợp đồng đã ký kết trừ trường hợp khách hàng thẩm định giá cố tình cung cấp thông tin sai lệch về tài sản thẩm định giá hoặc cá nhân tham gia thẩm định giá có hành vi thông đồng về giá theo kết luận của cơ quan có thẩm quyền đến mức phải xử lý trách nhiệm hình sự; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá hoặc trong trường hợp hoạt động thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân do Doanh nghiệp không tuân thủ các quy định về quản lý hoạt động thẩm định giá;
12.5. Góp ý Tiết e, Khoản 2: “e) Quản lý, giám sát hoạt động của thẩm định viên về giá tại doanh nghiệp;”
Việc giám sát hoạt động độc lập của thẩm định viên về giá là không khả thi, đồng thời có thể hiểu là doanh nghiệp có thể can thiệp vào quá trình hoạt động độc lập của Thẩm định viên về giá hành nghề, đề nghị bỏ quy định này và sửa thành:
“e) Quản lý hoạt động của thẩm định viên về giá hành nghề tại doanh nghiệp;”
12.6. Đề nghị bổ sung trách nhiệm của doanh nghiệp thẩm định giá và nêu rõ ý nghĩa của Bảng giá dịch vụ không phải là bắt buộc
“Ban hành công khai Bảng giá dịch vụ thẩm định giá làm cơ sở để khách hàng tham khảo thỏa thuận giá hợp đồng dịch vụ thẩm định giá”
Việc quy định như vậy để các bên thỏa thuận giá trị hợp đồng tư vấn có thể thỏa thuận mà không phải bắt buộc thực hiện theo
13. Góp ý Điều 55. Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo thẩm định giá
13.1. Góp ý Khoản 1. “Báo cáo thẩm định giá phải có chữ ký của thẩm định viên về giá thực hiện cuộc thẩm định giá và phê duyệt của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá.”
Cần quy định trách nhiệm của tất cả các thành viên tham gia thực hiện 1 hopwj đồng thẩm định giá do còn có trợ lý thẩm định viên, cộng tác viên, chuyên gia cùng tham gia, đề nghị sửa thành:
“1. Báo cáo thẩm định giá phải có chữ ký của tất cả các thành viên tham gia thực hiện trong đó thẩm định viên về giá chịu trách nhiệm chính thực hiện cuộc thẩm định giá và phê duyệt của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá.”
13.2. Góp ý Khoản 2: “Chứng thư thẩm định giá phải có chữ ký của thẩm định viên về giá thực hiện cuộc thẩm định giá và do người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá ký và đóng dấu.”
Chỉ cần thẩm định viên về giá tổ trưởng vì trong một số trường hợp tài sản tài sản phức tạp, có thể có nhiều thẩm định viên, thành viên khác cùng thực hiện, đề nghị sửa như sau:
“Chứng thư thẩm định giá phải có chữ ký của thẩm định viên về giá chịu trách nhiệm chính thực hiện cuộc thẩm định giá và do người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá hoặc người đứng đầu chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá ký và đóng dấu.”
13.3. Góp ý Khoản 4. “Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để khách hàng, người có liên quan được ghi tại hợp đồng thẩm định giá xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá của tài sản. Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời hạn hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá.”
Cần bổ sung đối tường liên quan nếu có vì không phải lúc nào cũng có đối tượng liên quan cần thiết phải ghi trong hợp đồng và theo quy định của luật xử phạt hành chính, tố tụng hình sự, định giá đất quy định thời điểm thẩm định giá chỉ có giá trị tại thời điểm xảy ra sự việc nên thời hiệu của Chứng thư thẩm định giá cần mở, đề nghị điều chỉnh như sau:
“4. Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá được sử dụng làm một trong những cơ sở để khách hàng, người có liên quan (nếu có) được ghi tại hợp đồng thẩm định giá xem xét, quyết định hoặc phê duyệt giá của tài sản. Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá chỉ có giá trị sử dụng trong thời hạn hiệu lực theo đúng mục đích thẩm định giá gắn với đúng tài sản, số lượng tài sản tại hợp đồng thẩm định giá; Trong một số trường hợp, hiệu lực của Chứng thư thẩm định giá, Báo cáo thẩm định giá chỉ có giá trị tại thời điểm nhất định”
13.4. Góp ý Khoản 5. “Chứng thư thẩm định giá phải được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trừ trường hợp tài sản thuộc danh mục tài sản bí mật nhà nước.”
Cần xem xét lại, đối với việc thẩm định giá cho đối tượng ngoài ngân sách, khách hàng thường yêu cầu doanh nghiệp TĐG ký thỏa thuận bảo mật thông tin theo luật dân sự. Quy định này chỉ có thể áp dụng đối với thẩm định giá đối với tài sản có liên quan đến nguồn ngân sách Nhà nước hoặc giao cho Chính phủ quy định chi tiết
14. Góp ý Điều 56. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng thẩm định giá
14.1. Góp ý Tiết d, Khoản 1: “Yêu cầu thay thế thẩm định viên về giá tham gia cuộc thẩm định giá khi có căn cứ cho rằng thẩm định viên về giá đó vi phạm Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam và nguyên tắc hoạt động trung thực, độc lập, khách quan trong quá trình thực hiện thẩm định giá, yêu cầu doanh nghiệp cung cấp Báo cáo thẩm định giá;”
Nên bỏ câu “yêu cầu doanh nghiệp cung cấp Báo cáo thẩm định giá” vì sẽ dẫn đến cách hiểu nếu khách hàng không yêu cầu thì Doanh gnhiệp thẩm định giá sẽ không cung cấp Báo cáo thẩm didnhj giá trong khi đây là yêu cầu bắt buộc.
14.2. Góp ý Tiết đ, Khoản 1: “Yêu cầu bồi thường trong trường hợp doanh nghiệp thẩm định giá có hành vi vi phạm gây thiệt hại;”
Doanh nghiệp là pháp nhân nên không thể có hành vi vi phạm gây thiệt hại được, đề nghị sửa thành:
“Yêu cầu doanh nghiệp thẩm định giá bồi thường dân sự trong trường hợp kết quả thẩm định giá trực tiếp gây thiệt hại;”
14.3. Góp ý Tiết c, Khoản 1: “Thông báo kịp thời, đầy đủ các vi phạm pháp luật và vi phạm hợp đồng thẩm định giá trong hoạt động thẩm định giá của thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;”
Hành vi vi phạm hợp đồng là vi phạm thỏa thuận dân sự, vậy “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” nào đứng ra nhận xử lý tranh chấp hợp đồng tư vấn (dân sự) ngoại trừ tòa án, đề nghị bỏ “và vi phạm hợp đồng thẩm định giá” sửa thành:
Thông báo kịp thời, đầy đủ các vi phạm pháp luật, vi phạm trong hoạt động thẩm định giá của thẩm định viên về giá và doanh nghiệp thẩm định giá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
15. Góp ý Điều 57. Giá dịch vụ thẩm định giá
“Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo giao dịch dân sự giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá trên nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý theo quy định của pháp luật về thuế để thực hiện các công việc theo Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam; lợi nhuận (nếu có) phù hợp với mặt bằng thị trường, cung cầu của dịch vụ thẩm định giá và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá; trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.”
Doanh nghiệp thẩm định giá là doanh nghiệp tư vấn, chủ sở hữu đầu tư theo nguyên tắc hoạt động kinh doanh lấy lãi, từ (nếu có) là không phù hợp, rất khó chứng minh. Giá dịch vụ trên hợp đồng được ước tính trên chi phí ước tính hoặc trên giá trị của tài sản thẩm định giá, việc quy định lợi nhuận phù hợp với mặt bằng thị trường là quy định định tính vì không xác định được lợi nhuận định mức vì chi phí phụ thuộc vào mức độ phức tạp trong từng tài sản thẩm định giá, do đó cũng không xác định được lợi nhuận cụ thể trên từng hợp đồng. Nên quy định lại ngắn gọn cho phù hợp như sau:
“Giá dịch vụ thẩm định giá thực hiện theo giao dịch dân sự giữa doanh nghiệp thẩm định giá với khách hàng thẩm định giá trên nguyên tắc cung cầu, cạnh tranh và được ghi trong hợp đồng thẩm định giá; trường hợp việc lựa chọn nhà thầu tư vấn thẩm định giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu”.
Trên đây là các ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật Giá (sửa đổi) tháng 4/2023 trên cơ sở kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực giá của tôi gửi Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội theo đề nghị tại công văn số 45/ĐĐBQH-VP ngày 20/4/2023 của Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội.
Hà Nội, ngày 25 thàng 4 năm 2023