VIETNAM APPRAISAL AND INSPECTION Co.ltd
11/3/2025 18:19:10
PHIẾM LUẬN:
Phân biệt khái niệm thẩm định giá và định giá
Theo Luật giá năm 2012 giải thích thuật ngữ về định giá và thẩm định giá như sau:
“Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ.”
“Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá.”
Nếu hiểu theo giải thích của Luật sẽ cho thấy việc thực hiện định giá và thẩm định giá đề có thể do một chủ thể thực hiện nhưng không phân biệt trường hợp nào là định giá và trường hợp nào là thẩm định giá. Nếu xét về ngữ nghĩa chung của 2 khái nhiệm này và quy định trong Luật Giá thì thực ra người soạn luật đang sử dụng “uyển ngữ” để tách ra thành hai khái niệm khác nhau: Với định giá thì xác định theo đối tượng thực hiện công việc còn với thẩm định giá thì xác định chung đối tượng thực hiện như định giá nhưng thêm yêu cầu “nghiệp vụ” công việc thực hiện như thế nào, theo cái gì???
Việc quy định của Luật như vậy dẫn đến tồn tại song song hai hệ thống nghiệp vụ hướng dẫn về giá là Hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam do Bộ Tài chính ban hành và văn bản định giá do các bộ ngành ban hành như: định giá đất do Bộ TNMT ban hành hoặc hệ thống văn bản định giá giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá và tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam về thẩm định giá trị doanh nghiệp (TĐGVN12)
Đi sâu vào chuyên môn thì việc định giá và thẩm định giá về nghiệp vụ là giống nhau, trong đó hoạt động định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thường được hướng dẫn mang tính đơn giản hoá quy trình thẩm định giá để đảm bảo hệ thống này có thể vận hành được, cụ thể như không đòi hỏi chuyên môn quá sâu (không yêu cầu thẻ hành nghề, chỉ cần chứng chỉ đào tạo), giảm thời gian và khối lượng thực hiện do đa phần người làm công tác định giá là không chuyên, phải thực hiện kiêm nghiệm trong khi kết quả định giá là áp đặt hoặc chính hệ thống này lại có thẩm quyền kiểm tra, rà soát lại (định giá lại) kết quả tư vấn thẩm định giá chuyên nghiệp.
Sự khác nhau căn bản nhất giữa thẩm đinh giá và định giá là khác biệt về mối quan hệ giữa đối tượng thực hiện nghiệp vụ thẩm định giá chính là sự độc lập khách quan với tài sản cần thẩm định giá còn đối tượng thực hiện nghiệp vụ định giá không độc lập như vậy, hoạt động định giá thể hiện quyền hoặc được uỷ quyền áp đặt của chủ sở hữu, sử dụng tài sản (nhà nước) lên giá trị của tài sản, các khái niệm này nên được điều chỉnh lại cho phù hợp, thể hiện đúng bản chất của mối quan hệ này, cụ thể nên điều chỉnh là:
+ Thẩm định giá: là hoạt động chuyên môn về giá của cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện, chức năng hành nghề xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản tại một không gian, thời gian và mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá và / hoặc văn bản hướng dẫn chuyên ngành một cách độc lập, khách quan theo yêu cầu để các bên có liên quan tham khảo làm cơ sở quyết định giá trị của tài sản.
+ Định giá: là hoạt động chuyên môn về giá của cá nhân, tổ chức có quyền (được uỷ quyền) hoặc lợi ích liên quan với tài sản cần định giá; kiểm tra lại kết quả thẩm định giá hoặc trực tiếp xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản đó theo tiêu chuẩn thẩm định giá và / hoặc văn bản hướng dẫn chuyên ngành tại một không gian, thời gian và mục đích nhất định làm cơ sở quyết định giá trị của tài sản.
Trong đó “hoạt động chuyên môn về giá” sẽ được hiểu là kiến thức về “tiêu chuẩn thẩm định giá và / hoặc văn bản hướng dẫn chuyên ngành”; “quyền và lợi ích liên quan” của người thực hiện định giá bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; lợi ích nhất định từ kết quả định giá; quyền mua; quyền bán; quyền được uỷ quyền quyết định giá … Việc quy định như vậy sẽ phân định được vai trò, vị trí, tính độc lập khách quan của người làm thẩm định hoặc định giá trong cùng một công việc nhưng hoàn toàn không bị quy định lẫn lộn vai trò của thẩm định giá và định giá.
Cách hiểu này chỉ tập trung điều chỉnh bản chất quan hệ (độc lập hay không độc lập) của người định giá, thẩm định giá với tài sản với cùng chung một nghiệp vụ như nhau; không còn các quy định lẫn lộn thời điểm hoặc đối tượng thực hiện nghiệp vụ giữa định giá, thẩm định giá nhà nước và thẩm định giá độc lập, mọi quan hệ sẽ được phân tách rõ ràng trong các trường hợp cùng một tài sản nhưng lúc là hoạt động thẩm định giá lúc lại là hoạt động định giá, cụ thể như:
+ Thẩm định giá Nhà nước, Hội đồng thẩm định giá mua, bán, thuê, cho thuê tài sản nhà nước có quyền tự thực hiện xác định giá trị tài sản là hoạt động định giá hoặc giám sát, kiểm tra chất lượng thẩm định giá độc lập (chứng thư thẩm định giá độc lập), có quyền yêu cầu điều chỉnh hoặc tự điều chỉnh yếu tố hình thành giá để đảm bảo quyền lợi của Nhà nước đã uỷ quyền thực hiện.
+ Trong hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trước đây có hướng dẫn chuyên môn độc lập (xác định gái trị doanh nghiệp) nay đã sử dụng chung “pháp luật về thẩm định giá” đồng thời vẫn hướng dẫn trình tự thực hiện, chi tiết về một số trường hợp cho phép xử lý tài chính là thể hiện quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp, chủ sở hữu phần vốn … ; sau khi tổ chức tư vấn có kết quả tư vấn thì Hội đồng Định giá họp để xem xét kết quả tư vấn, chấp nhận hoặc loại bỏ yếu tố hình thành giá để đơn phương, chủ động điều chỉnh giá trị doanh nghiệp theo uỷ quyền của Nhà nước theo nguyên tắc “bảo toàn vốn” vốn dĩ không độc lập, không mang tính thị trường.
+ Chủ tài sản, hàng hoá dịch vụ, cơ sở sản xuất được quyền thuê tổ chức thẩm định giá tư vấn theo giá thị trường trên cơ sở đó đối chiếu với kết quả định giá nội bộ trên cơ sở tập hợp chi phí để tự định giá tài sản, hàng hoá dịch vụ của mình hoặc để quyết định giá bán theo hình thức tập hợp chi phí hay theo mặt bằng thị trường.
+ Các bên mua - bán tài sản thuê tổ chức thẩm định giá thực hiện tư vấn giá tài sản, sử dụng kết quả thẩm định giá độc lập để “thương lượng”, diễn biến của sự việc thương lượng chính là hoạt động định giá, mang tính áp đặt đơn phương kết hợp với hài hoà lợi ích của cả các bên liên quan.
+ Để tránh vừa đá bóng vừa thổi còi, người vay vốn có quyền thuê tổ chức định giá độc lập thẩm định giá tài sản thế chấp, tổ chức tín dụng nhận cho vay thế chấp có quyền định giá lại tài sản thế trên cơ sở kết quả thẩm định giá độc lập để điều chỉnh tỷ lệ rủi ro theo quy trình nội bộ để thoả thuận hạn mức cho vay.
+ Các bên đương sự khi tranh chấp có quyền thuê thẩm định giá để chứng minh giá trị tài sản, trường hợp không thống nhất mới cần Hội đồng định giá tài sản xem xét ra quyết định cuối cùng
Việc thay đổi như vậy cũng phù hợp với các văn bản pháp luật ban hành sau khi Luật Giá có hiệu lực như Nghị định 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự; Thông tư liên tịch 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC hướng dẫn thi hành Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Thông tư số 01/TTLB-BTP-VKSNDTC-TANDTC về quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định của Toà án giải quyết phá sản; Thông tư 36/2014/TT-BTNMT về định giá đất … chỉ hướng dẫn thành lập Hội đồng định giá tài sản, Hội đồng định giá đất chứ không hướng dẫn thành lập Hội đồng Thẩm định giá nhà nước và phù hợp, thống nhất với quy định của Pháp lệnh Giá trước đây.
Bản tin VAI